|
Bản sắc Brazil
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Curitiba đón tôi với chú bé thả diều đang quay lưng nhìn xe cộ, tay cầm sợi cước giữ con diều trên cao, bằng
giấy, hình vuông, đuôi dài y hệt như ở Việt Nam.
Cây cối bên đường nhìn cũng không có gì lạ: chuối, đu đủ, lá môn, dây trầu bà trang trí tường rào, mấy bụi trúc góc sân, vài mảnh rừng thông trên đồi. Cách nay trên một thế kỷ, cả một vùng cao nguyên rộng lớn của bang Paraná là nơi nuôi bò và trồng trà, mà Curitiba là trung tâm mua bán trước khi chuyển xuống vịnh Serra. Về kiến trúc thì nếu đến đây, chắc quí vị sẽ cảm giác giống hệt như đang sống trong một thành phố nào đó ở châu Âu. Thực vậy, hệ thống giao thông công cộng và kỹ năng quản lý đô thị tiên tiến, bảo vệ môi trường ở Curitiba được coi là mô hình để nhiều nước tiên tiến tìm đến học hỏi kinh nghiệm. Đa sắc tộc Khi xưa, thực dân Bồ Đào Nha bỏ mặc nơi này cho di dân từ đủ mọi nước trên thế giới đổ về khai phá: người Ý, Đức, Ba Lan và Ukraina. Ngay khu trung tâm cổ, trên đỉnh đồi là nhà hàng pizza Ý, gần đó là quán bia Đức Mein Schatte, cũng nổi tiếng như quán Ba Lan Durski. Thực ra, các món ăn này không còn thuần gốc sau hơn 100 năm địa phương hóa. Gọi món bò bít-tết trong quán bia The Farm, mà giới nghệ sĩ trong vùng hay ghé nghe nhạc sống hàng ̣đêm, bạn sẽ thấy rõ sự pha trộn đó. Quanh miếng phi-lê còn bao mỡ là khoai tây chiên kiểu Pháp, khoai tây luộc cắt miếng trộn váng sữa kiểu đông Âu, dầu oliu và giấm nho Ý, và đặc biệt là một phần cơm và chai nước tương Nhật Bản nữa. Tờ tạp chí du lịch của thành phố Where Brazil – Curitiba quảng cáo tháng sau sẽ dành trọn kỳ để kỷ niệm 100 năm nhập cư của người Nhật. Dưới phố, trong khu chợ có khá nhiều quán ăn nhanh mà chủ và người bán hàng ̣đều có khuôn mặt đông Á, thỉnh thoảng thấy có đôi chiếc đèn lồng đỏ, hay một vài chữ Hán treo đâu đó. Nhưng họ không đáp trả mấy câu chào vào thăm hỏi cả bằng tiếng Nhật lẫn tiếng Trung Quốc của tôi, ngay cả nói chuyện với nhau cũng bằng tiếng Bồ Đào Nha.
Đồ ăn bày trong quầy cũng giống hệt các quán bình dân của người Brazil, trên bàn không thấy bày đũa, khiến tôi từ bỏ ý định dùng tay để hỏi xem ở đây có bán hoành thánh, mì, phở hay ramen gì đó không. Có vẻ các nhóm di dân khác cũng đồng hóa giống như vậy, trong số hơn một triệu di dân gốc Đông Âu cũng khó tìm được người nào còn nói được tiếng Ba Lan hay Ukraina. Nếu đúng sự đồng hóa và bản địa hóa đã tạo ra một bản sắc riêng nào đó của người Brazil, thì có thể tự họ cũng sẽ tìm được tiếng nói chung trong vấn đề ngưng phá rừng Amazon. Ít nhất đề tài đó được số ra tháng này của tờ tạp chí hàng không Brazil – TAM lấy làm chủ đề chính. Nhưng tôi sẽ kể tiếp câu chuyện đó với quí vị trong thư sau, bây giờ phải chạy vội ra ga cho kịp chuyến xe lửa Serra Verde Express, tuyến đường chỉ vài chục cây số nhưng với gần 100 cầu và hầm, được coi là kỳ tích của một thời khẩn hoang, khai thác rừng làm nông nghiệp, tích lũy tư bản. Sau một thế kỷ, tuyến đường này vẫn tiếp tục là huyết mạch cho hàng nông sản từ miền nam Brazil đổ ra cảng
Paranagua. |
CÁC BÀI LIÊN QUAN
Giàu và nghèo ở Sao Paulo04 Tháng 5, 2008 | Chuyên đề
Rừng cao ốc Sao Paulo03 Tháng 5, 2008 | Chuyên đề
'Nhà báo nhảy dù'01 Tháng 5, 2008 | Chuyên đề
Tại sao phải quan tâm tới Amazon29 Tháng 4, 2008 | Chuyên đề
Đường vào lá phổi của thế giới30 Tháng 4, 2008 | Chuyên đề
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||