![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() | ![]() | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Điểm nóng Đài Loan | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Tổng thống Trần Thủy Biển bị bắn trước ngày diễn ra bầu cử và trưng cầu dân ý về quan hệ với Trung Quốc làm cho đảo quốc này càng được chú ý đến. Đài Loan có người ở từ hàng nghìn năm qua và những cư dân đến sinh sống đầu tiên có nhiều khả năng là người dân Đông Nam Á chứ không phải từ Trung Quốc. Sử sách Trung Quốc có viết về Đài Loan lần đầu tiên năm 239 sau Công lịch, khi hoàng đế Trung Hoa gửi một lực lượng đến khai thác hòn đảo. Đây cũng là chứng cớ được Trung Quốc ngày nay coi là Đài Loan thuộc Trung Quốc từ xưa. Lịch sử thăng trầm Nhưng từ sau lần đó, các vua chúa Trung Quốc nhiều lần bỏ quên hòn đảo này, thậm chí cấm dân chúng từ lục địa di cư sang đó. Có những thời họ coi hòn đảo chỉ là chỗ ẩn náu của cướp biển. Sau giai đoạn bị người Hà Lan làm chủ (1642-1661) và một thời ở dưới quyền một tay lãnh chúa gốc cướp biển Trịnh Thành Khôn, Đài Loan được đặt dưới sự quản lý của nhà Thanh từ 1683 đến 1895. Nhưng đây là một sự quản lý tồi tệ, trên đảo có nhiều vụ nổi dậy và giới quan quyền chẳng làm gì mấy để cải thiện đời sống dân chúng. Bắt đầu từ thế kỷ 17, dòng người di dân từ Trung Quốc sang Đài Loan ngày một tăng. Nhiều khi họ bỏ sang Đài Loan để tránh loạn lạc và sự cực khổ. Đa số là người Hán Hoklo (Phúc Lô) từ Phúc Kiến hoặc Hakka (Hẹ-Khách Trú) từ Quảng Đông.
Ngày nay Đài Loan có thành phần sắc tộc đa dạng, ngoài người gốc Hoa còn có 2% dân miền núi có liên hệ với các dân tộc thiểu số Đông Nam Á. Tình trạng sinh sống khổ cực, bị phân biệt đối xử của các bộ lạc thiểu số này đã từng là nguyên nhân khiến chính quyền bị phê phán, đưa đến các hoạt động cải thiện sinh hoạt của họ. Chính trị nhiều biến động Con cháu của hai nhóm dân từ Quảng Châu và Phúc Kiến nay chiếm đa số người gốc Hoa trên đảo. Năm 1895, sau cuộc chiến Nhật- Thanh, triều đình trao Đài Loan cho Nhật Người Nhật đã nhanh chóng đầu tư vào hòn đảo này, từ đường xá đến nông nghiệp, tạo nền tảng cho sự phát triển của Đài Loan ngày nay. Sau khi Nhật Bản thua trận trong Thế Chiến II, Mỹ và Anh với tư cách phe đồng minh thắng trận đã đồng ý trao Đài Loan cho chính phủ Tưởng Giới Thạch. Khi chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đã thua trận tại lục địa trong cuộc nội chiến với quân đội Mao Trạch Đông, nhóm tàn quân Quốc Dân Đảng đã chạy sang Đài Loan năm 1949. Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng đã nắm quyền với bàn tay sắt ở Đài Loan trong nhiều thập niên dù nhóm người Trung Hoa đến từ lục địa với chính phủ Trung Hoa Dân Quốc (1.5 triệu) chỉ chiếm 14% dân số. Thế nhưng con trai của Tưởng Giới Thạch là Tưởng Kinh Quốc sau khi tiếp thu gia tài của cha mình đã bắt đầu quá trình dân chủ hóa, dẫn đến việc chấm dứt thiết quân luật. Đến năm 2000 thì vị tổng thống đầu tiên không thuộc Quốc Dân Đảng đã lên cầm quyền, ông Trần Thủy Biển. Trên nguyên tắc, Đài Loan vẫn tự nhận mình là chế độ tiếp nối của nước Trung Hoa Dân Quốc do Tôn Trung Sơn thành lập tại lục địa sau khi nhà Thanh sụp đổ. Hiện chỉ có chừng 30 quốc gia công nhận Đài Loan về mặt chính trị nhưng đảo quốc này có quan hệ kinh tế rộng rãi với nhiều nước trên thế giới, kể cả Trung Quốc. Trung Quốc coi Đài Loan là một tỉnh của mình và muốn Đài Loan chấp nhận chính sách một quốc gia hai chế độ. Giữa hai dòng nước
Hiện vẫn chưa có thống nhất về định nghĩa Đài Loan, thậm chí về một cái tên chính thức. Chính phủ Trung Hoa Dân quốc của ông Tưởng Giới Thạch, người từ Đại lục sang Đài Loan hồi năm 1949, thoạt tiên có tham vọng đại diện cho cả nước Trung Quốc mà chính phủ này muốn tái chiếm. Đài Loan thực tế đã chiếm ghế của Trung Quốc tại Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc và được nhiều nước phương Tây công nhận là chính phủ duy nhất của Trung Quốc. Thế nhưng vào năm 1971, Liên hiệp quốc đã chuyển quyền công nhận trên phương diện ngoại giao cho Bắc Kinh và chính phủ Trung Hoa Dân quốc bị đẩy bật ra. Con số các nước công nhận chính phủ Trung Hoa Dân quốc cũng giảm xuống dưới 30. Trung Quốc xem Đài Loan như một tỉnh ly khai mà Trung Quốc cam kết sẽ đoạt lại, bằng vũ lực nếu cần. Trung Quốc cũng cho rằng việc một số ít nước công nhận Đài Loan cho thấy thế giới thống nhất rằng chỉ có một nước Trung Quốc. Thế nhưng các lãnh đạo Đài Loan nói rõ ràng Đài Loan không phải là một tỉnh mà là một quốc gia có chủ quyền. Đài Loan có hiến pháp riêng, có ban lãnh đạo được bầu chọn một cách dân chủ và một quân đội với 400 ngàn binh lính. Hai lập trường quả thực vô cùng khác nhau, và bởi vậy các quốc gia trên thế giới đành vui vẻ chấp nhận tình trạng nước đôi trong quan hệ. Theo đó, Đài Loan có đầy đủ các yếu tố của một quốc gia độc lập cho dù vị thế vẫn chưa được rõ ràng. Lập trường của Trung Quốc Sau nhiều thập kỷ mưu đồ thù nghịch và phát ngôn giận dữ, quan hệ giữa Đài Loan và Trung Quốc bắt đầu được cải thiện trong những năm 1980. Trung Quốc đã đề xuất ra một công thức gọi là “một đất nước, hai chế độ” mà theo đó Đài Loan sẽ được trao quyền tự trị đáng kể nếu như chấp nhận sáp nhập vào Trung Quốc. Đề xuất này đã không được Đài Loan chấp nhận, thế nhưng đảo quốc này cũng đã nới lỏng các quy định về đi lại và đầu tư tại Đại lục.
Năm 1991, Đài Loan cũng tuyên bố kết thúc chiến tranh với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đã có một số cuộc thảo luận giữa đại diện không chính thức của hai bên, tuy Trung Quốc vẫn kiên trì tuyên bố rằng chính phủ Đài Loan là không hợp pháp và điều này đã ảnh hưởng tới quan hệ liên chính phủ. Kể từ đó đã không có mấy tiến bộ. Trung Quốc bắt đầu lo lắng rằng cựu Tổng thống Đài Loan Lý Đăng Huy cố gắng thúc đẩy việc công nhận độc lập của nước này. Bắc Kinh đặc biệt lo ngại vào năm 2000 khi ông Trần Thủy Biển đắc cử và ông này công khai ủng hộ việc độc lập. Phản ứng của Trung Quốc là cho biết họ sẵn sàng đàm phán, tuy nhiên chỉ với điều kiện là ông Trần phải công nhận chủ thuyết “một Trung Quốc” của Bắc Kinh, một điều ông này khó mà chấp nhận. Trong khi các tiến bộ về chính trị có phần chậm chạp, mối liên hệ về mặt kinh tế và dân sự giữa hai bên lại phát triển nhanh chóng. Các công ty của Đài Loan đã đầu tư trên 50 tỷ đô la ở Đại lục và khoảng một triệu người Đài Loan hiện sinh sống ở Trung Quốc. Nhiều người Đài Loan lo lắng rằng kinh tế của Đài Loan nay phụ thuộc vào Trung Quốc. Một số người thì ngược lại, chỉ ra là nếu quan hệ kinh tế với Đại lục tăng trưởng thì nguy cơ Trung Quốc tiến hành quân sự chống Đài Loan sẽ giảm đi bởi vì lo lắng kinh tế Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng. Đồng minh duy nhất Hoa Kỳ là người bạn quan trọng nhất và cho tới nay cũng là đồng minh có thể nói là duy nhất của Đài Loan.
Quan hệ giữa hai bên, được hình thành từ Thế chiến thứ hai và thời kỳ Chiến tranh lạnh, đã được thử lửa một lần vào năm 1979. Đó là khi Tổng thống Mỹ Jimmy Carter quyết định ngừng công nhận Đài Loan trên phương diện ngoại giao để tập trung vào bồi đắp quan hệ với Trung Quốc. Quốc hội Hoa Kỳ ngay sau quyết định này đã thông qua Nghị quyết về Quan hệ với Đài Loan với những hứa hẹn sẽ cung cấp cho Đài Loan vũ khí tự vệ. Quốc hội cũng nhấn mạnh rằng bất cứ cuộc tấn công nào của Trung Quốc vào Đài Loan cũng sẽ bị Hoa Kỳ coi là “quan ngại nghiêm trọng”. Kể từ đó, chính sách của Hoa Kỳ thường xuyên được mô tả là “chiến lược nước đôi”, cố gắng cân bằng việc Trung Quốc xuất hiện như một cường quốc khu vực với các thành tựu kinh tế và dân chủ tại Đài Loan mà Mỹ lấy làm thán phục. Vai trò quan trọng của Hoa Kỳ được chứng minh một cách rõ ràng nhất vào năm 1996, khi Trung Quốc tiến hành thử tên lửa nhằm cố gắng ảnh hưởng tới kỳ bầu cử trực tiếp đầu tiên tại Đài Loan. Để đáp lại hành động này, Tổng thống Hoa Kỳ lúc đó là Bill Clinton đã ra lệnh tổ chức một cuộc trưng tập uy lực quân sự Hoa Kỳ lớn nhất tại châu Á kể từ cuộc chiến Việt Nam. Lúc đó Washington gửi tàu chiến Mỹ tới khu vực Eo biển Đài Loan, một thông điệp quá rõ ràng cho Trung Quốc. Sự kiện này có thể đã đánh động cho Hoa Kỳ thấy nguy cơ Mỹ sẽ lâm vào tình trạng phải tham chiến vì nước khác.
Hai năm sau, Tổng thống Clinton đã đưa ra quan điểm “ba không”. Chính phủ của Tổng thống George W Bush thì tỏ thái độ hung hăng hơn, thậm chí đã mô tả Trung Quốc như một “cạnh tranh có tính chiến lược”. Thế nhưng Hoa Kỳ cũng cẩn thận không khuyến khích Tổng thống Đài Loan Trần Thủy Biển, đồng thời cảnh báo ông này không nên có hành động ảnh hưởng xấu tới tình trạng hiện thời. Quan hệ kinh tế với Việt Nam Quan hệ Việt Nam với Đài Loan chủ yếu tập trung vào kinh tế nhưng đang chuyển sang các vấn đề xã hội. Chênh lệch thu nhập và mức sống khiến người Đài Loan đầu tư nhiều vào Việt Nam nhưng số phận nhiều phụ nữ Việt ở Đài Loan cũng là vấn đề đau lòng. Theo số liệu của Văn phòng đại diện Đài Bắc ở Việt Nam thì năm 1988 đầu tư của các công ty Đài Loan chưa có gì nhưng đến 2002 đã lên đến 5 tỷ 779,2 triệu đôla. Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam thì đưa ra các con số rằng chỉ trong năm 2003, Đài Loan đứng đầu danh sách các nhà đầu tư nước ngoài với 169 dự án trị giá 326 triệu đôla. Doanh nghiệp Đài Loan đầu tư chủ yếu vào các lĩnh vực phục vụ xuất khẩu nhưng nay đang muốn tham gia vào mạng lưới buôn bán lẻ. Trả lời phỏng vấn BBC Việt Ngữ, ông Huang Nan Huei, Trưởng Văn phòng đại diện Đài Bắc tại Hà Nội nói rằng ‘các nhà đầu tư Đài Loan rất hài lòng với môi trường kinh doanh ở Việt Nam’.
Ông nói vì ‘người Việt Nam rất chăm chỉ, thông minh và kỷ luật, chính phủ Việt Nam cũng giúp đỡ người Đài Loan nhiều và môi trường đầu tư ngày càng cải thiện’. Khi được hỏi việc thiếu quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Đài Loan có ảnh hưởng gì đến kinh doanh hay không thì ông nói đó không phải là một vấn đề. Ông Huang cho hay là Đài Loan dù không có quan hệ ngoại giao chính thức và không được Hoa Kỳ hay Anh Quốc công nhận nhưng người mang hộ chiếu ‘Trung Hoa Dân Quốc’ vẫn được vào các nước kia không cần thị thực để kinh doanh. Ông cũng cho rằng người Việt Nam hiểu hoàn cảnh rằng Trung Quốc không công nhận Đài Loan là một quốc gia nhưng ‘Đài Loan được khoảng 30 quốc gia trên thế giới công nhận’. Vấn đề xã hội Nhưng thời gian qua một số vấn đề nổi lên lại là chuyện đàn ông Đài Loan đến Việt Nam cưới vợ. Hàng nghìn phụ nữ nghèo ở Việt Nam đã được đưa sang Đài Loan trong diện hôn nhân với đàn ông xứ này. Báo chí trong nước nói đến những ‘đám cưới tập thể’, tổ chức vội vã theo kiểu ‘tiền trao cháo múc’. Cô Trần Thị Diễm Quyên, một phụ nữ lấy chồng Đài Loan công nhận với BBC rằng có nhiều cặp lấy nhau ‘chớp nhoáng, nhìn nhau dăm ba phút’ hay ‘gặp nhau một hai lần’ rồi về Đài Loan mới ‘tạo cảm tình’. Vì thế, khi về Đài Loan nếu các cặp vợ chồng không ‘tạo được tình cảm’ thì sẽ dẫn đến đổ vỡ. Cô Quyên cũng cho biết ở khu phố cô sống tại Đài Bắc có các quán bán bia nay có các cô gái Việt Nam đứng bán hàng sau khi chạy khỏi gia đình chồng. Nhưng cô cho biết cảnh sát truy bắt những người này. Giáo sư Trần Văn Đoàn từ Đại học Quốc gia Đài Bắc thì cho rằng có ba loại phụ nữ Việt Nam xuất hiện trong các ‘bi kịch’ ở Đài Loan.
Loại thứ nhất theo ông là các cuộc hôn nhân hợp pháp qua các môi giới được ký kết và có đồng thuận của hai bên. Loại thứ hai là các phụ nữ không kết hôn ở Việt Nam mà được người Đài Loan đưa sang làm công hay với mục đích khác nhưng sau đi làm điếm. Loại thứ ba là các đám cưới giả có trả tiền với mục đích xuất cảnh sang Đài Loan. Theo giáo sư Trần Văn Đoàn thì cần nhìn vấn đề rộng hơn như chuyện buôn lậu phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc để làm điếm hay người ở. Theo ông, khó khăn là ở chỗ tại Việt Nam không có các tổ chức phi chính phủ bảo vệ quyền phụ nữ. Khi được hỏi về vấn đề này, ông Huang Nan Huei, Trưởng Văn phòng đại diện Đài Bắc tại Hà Nội cho rằng chính phủ hai bên đã và đang làm việc để giải quyết. Ông Huang thì tin rằng dù có các vụ hôn nhân đổ vỡ nhưng ‘tỷ lệ ly hôn giữa các cô dâu Việt Nam và chồng Đài Loan vẫn thấp hơn tỷ lệ giữa người Đài Loan'. Ông cũng nói chuyện đàn ông Đài Loan sang Việt Nam hay nước khác tìm vợ là chuyện hoàn toàn thuộc quyền của họ. |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||