![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | ![]() | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
![]() | ![]() | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Quan hệ quân sự Việt - Mỹ hai năm qua | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sự dính líu quân sự của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, về chính thức, chấm dứt vào tháng Giêng 1973 với việc ký hiệp định hòa bình Paris. Sau đó, vấn đề người Mỹ mất tích (MIA) tiếp tục tỏ ra nhạy cảm và góp phần trong việc đình hoãn bình thường hóa quan hệ song phương. Trong suốt 10 năm qua, vấn đề MIA đã luôn chiếm phần quan trọng trong các chuyến thăm Việt Nam của các tổng tư lệnh Mỹ khu vực Thái Bình Dương. Tháng Hai 1994, Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam; tuy nhiên, việc hạn chế bán thiết bị quân sự chỉ được dỡ bỏ vào cuối năm 1998. Dưới đây là thông tin điểm lại quan hệ quốc phòng giữa hai nước trong năm 2003 - 2004, trích từ bài viết "Vietnam’s Foreign Relations: The Strategic Defence Dimension" của giáo sư Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Úc, đọc tại hội thảo Vietnam Update ở Singapore tháng 11-2004. Trong khoảng thời gian từ chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ William Cohen năm 2000 đến chuyến thăm của Bộ trưởng quốc phòng Phạm Văn Trà tháng 11-2003, các hoạt động hợp tác quốc phòng đã mở rộng trong ba lĩnh vực chính: Đầu tiên, vào tháng 6-2000, Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký thỏa thuận hỗ trợ cho việc gỡ mìn và thiết bị chưa nổ tại Việt Nam. Các chuyên viên gỡ mìn của Việt Nam đã đến thăm Mỹ tháng Mười, 2000, trong lúc một nhóm 14 người hoàn thành khóa học về gỡ bỏ thiết bị vũ khí vào tháng Chín, 2001. Thứ hai, máy bay quân sự Mỹ đã cung cấp giúp đỡ nhân đạo cho Việt Nam do đợt lũ lụt tháng Mười, 2000. Và thứ ba, Việt Nam và Mỹ đã có hợp tác song phương về vấn đề quân y. Ví dụ, tháng Ba 2003, các bác sĩ thuộc quân y viện Tripler ở Hawaii thăm Việt Nam theo chương trình Trao đổi Khoa học Quân y Việt Nam-Mỹ. Tháng Tư 2004, hai nước tổ chức Hội thảo Chuyên đề về Chính sách và Hoạch định Chiến lược về HIV/AIDS dành cho các sỹ quan cao cấp của quân đội Việt Nam. Việt Nam đã đồng ý cùng Mỹ tổ chức hội thảo quân y vùng châu Á Thái Bình Dương ở Hà Nội vào tháng Năm 2005. Đây sẽ đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam đồng ý đồng tổ chức một hội thảo đa quốc gia của Bộ tư lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương (PACOM). Tăng tốc sau 11-9 Hợp tác quốc phòng Việt – Mỹ có vẻ đã tăng tốc kể từ sau sự kiện 11-9-2001. Vào tháng Giêng 2002, đô đốc Dennis C. Blair, Tổng Tư lệnh, Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương, thăm Việt Nam.
Khi ông này lên nắm quyền chỉ huy vào tháng Giêng 1999, đô đốc Blair đã đề cập quan niệm các cộng đồng an ninh. Khi đó ông nói: “Lý tưởng này mở rộng cho các kẻ thù cũ như Việt Nam.” Trong chuyến thăm, đô đốc Blair ngỏ lời mời Việt Nam tham dự cuộc tập trận rắn Hổ mang vàng với tư cách quan sát viên. Đô đốc Blair ghi nhận rằng đa số sự hợp tác quốc phòng song phương vẫn mang tính chất “nhìn lại” về di sản chiến tranh. Ông nói đây là lúc “chuyển tiếp lên những sứ mạng của tương lai.” Sau chuyến thăm này, Việt Nam lần đầu tiên tham dự cuộc tập trận rắn Hổ mang vàng với tư cách quan sát viên vào năm 2003. Kể từ năm 1999, Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương đã thường xuyên ngỏ lời mời Tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam tham dự hội nghị hàng năm của các tổng tham mưu châu Á Thái Bình Dương. Việt Nam chưa bao giờ nhận lời. Tuy nhiên, đến năm 2004, Việt Nam đã cử phó tổng tham mưu trưởng đến hội nghị tại Nhật Bản. Điều này đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam cử một đại diện đến hội nghị này. Thận trọng Trong nửa cuối năm 2003, Việt Nam cũng bày tỏ sự sẵn lòng sắp xếp cho một chuyến thăm của bộ trưởng quốc phòng Việt Nam.
Trước chuyến thăm của tướng Phạm Văn Trà, các quan chức Mỹ đã hi vọng Việt Nam sẽ ký một thỏa thuận mở đường cho việc hỗ trợ theo chương trình Đào tạo và Giáo dục quân sự quốc tế (IMET). Nhưng việc này không thành. Hoa Kỳ vẫn thường nêu chủ đề IMET trong các cuộc gặp với phía Việt Nam. Tháng 11-2003, tướng Phạm Văn Trà có chuyến thăm đầu tiên của một bộ trưởng quốc phòng của nước Việt Nam thống nhất đến Hoa Kỳ. Theo những thông tin hiện thời, thì có vẻ không có một thỏa thuận hợp tác quốc phòng cụ thể nào được ký kết trong chuyến thăm này. Tướng Trà đã nhấn mạnh mong muốn xây dựng một “khuôn khổ cho quan hệ hợp tác thân thiện”. Ông cũng thúc giục tăng cường hợp tác từ phía Mỹ cho việc đền bù các nạn nhân chất da cam. Gần như ngay sau chuyến thăm của tướng Trà là việc lần đầu tiên một chiến hạm Mỹ cập cảng Sài Gòn. Con tàu USS Vandegrift đến Việt Nam vào ngày 19-11. Đến tháng Bảy năm sau, Hoa Kỳ được phép có con tàu hải quân lần thứ hai cập cảng Đà Nẵng. Và tháng Hai 2004, đô đốc Thomas Fargo, tư lệnh hiện nay của Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương, đến Hà Nội. .......................................................................................................... Nguồn: Thông tin được trích từ bài viết "Vietnam’s Foreign Relations: The Strategic Defence Dimension" của giáo sư Carl Thayer, Học viện Quốc phòng Úc, đọc tại hội thảo Vietnam Update ở Singapore tháng 11-2004. Trong bài viết, ông Carl Thayer phân tích các hình thức hợp tác quốc phòng của Việt Nam với các nước trong thời gian gần đây. Chương trình Điểm lại quan hệ Việt - Mỹ trong năm 2004 sẽ được phát đi trong chương trình của Ban Việt ngữ BBC lúc 6h sáng (giờ Việt Nam), ngày 3-1-2005. |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||