BRICS muốn thách thức đồng đô la Mỹ: Việt Nam sẽ như thế nào?

BRICS, Vietnam

Nguồn hình ảnh, Getty Images/BBC

    • Tác giả, Mỹ Hằng
    • Vai trò, BBC News Tiếng Việt

Ngay sau khi ra thông báo chính thức trở thành nước thứ 10 được công nhận là "quốc gia đối tác" của khối BRICS hôm 14/6, Việt Nam nhận những lời chúc mừng nồng nhiệt từ các quốc gia thành viên.

"Việt Nam nổi bật là một nhân tố quan trọng ở châu Á. Những nỗ lực của Việt Nam trong việc thúc đẩy hợp tác Nam – Nam và phát triển bền vững càng làm nổi bật sự tương đồng về lợi ích với khối này," Brazil - nước chủ tịch luân phiên của BRICS năm 2025 - cho biết trong thông cáo phát đi cùng ngày.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Quách Gia Côn, nói rằng nước này hoan nghênh Việt Nam trở thành đối tác của BRICS và tin rằng sự tham gia này không chỉ mang lại lợi ích cho sự phát triển của Việt Nam mà còn phục vụ lợi ích chung của các quốc gia BRICS và các nước Nam Toàn cầu (Global South, chỉ các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh).

Nhưng khi những lời chúc tụng tạm lắng, không ít ý kiến cho rằng Việt Nam cần đánh giá lại về những thách thức mà mình có khả năng phải đối mặt, dựa trên việc BRICS là diễn đàn của các nền kinh tế lớn mới nổi đang muốn tạo lập một trật tự quốc tế mới chống lại sự ảnh hưởng của Mỹ và phương Tây - điều dường như mâu thuẫn với chính sách ngoại giao 'cây tre' của Hà Nội.

Thách thức tiềm ẩn?

BRICS, Vietnam

Nguồn hình ảnh, Getty Images/BBC

Các thành viên của BRICS từng nhiều lần đề cập về một giải pháp thay thế sự lãnh đạo của phương Tây đối với kinh tế toàn cầu.

Ông Celso Amorim, Cố vấn trưởng của Tổng thống Brazil Luiz Inácio Lula da Silva, khẳng định Trung Quốc cùng các thành viên còn lại trong nhóm BRICS đang thiết lập một cơ chế giúp ổn định nền kinh tế toàn cầu giữa những bất ổn do Mỹ gây ra.

Dù nhận định việc Việt Nam trở thành quốc gia đối tác của BRICS "là một diễn biến rất đáng chú ý", Philip Pilkington, chuyên gia kinh tế vĩ mô và đầu tư từ Viện Quan hệ Quốc tế Hungary, nói với BBC News Tiếng Việt rằng "điều này có lẽ thực sự mâu thuẫn với cách tiếp cận ban đầu" của Hà Nội.

Ông Philip Pilkington nói thêm rằng "cho đến nay, Việt Nam vẫn tránh gia nhập BRICS với hy vọng có thể tận dụng quan hệ với Mỹ để thu hút đầu tư theo xu hướng friendshoring [chuyển chuỗi cung ứng sang các nước thân thiện]".

Trong suốt nhiều năm qua, Việt Nam luôn kiên định với chính sách "không chọn phe", mà "uyển chuyển", "mềm mỏng" với mọi quốc gia, đặc biệt là hai siêu cường Mỹ và Trung Quốc.

Tuy nhiên, chính sách này, theo một số nhà quan sát, khiến Việt Nam, trong nhiều tình huống, rơi vào thế "nước đôi" khó xử: ngày càng phụ thuộc sâu vào kinh tế và công nghệ Trung Quốc, trong khi vẫn cố duy trì và mở rộng quan hệ "đối tác chiến lược toàn diện" với Hoa Kỳ.

"Tôi cho rằng chính phủ Việt Nam cảm thấy không còn lựa chọn nào khác do ảnh hưởng của cuộc chiến thương mại (giữa các cường quốc, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc)," ông Philip Pilkington nói về việc Việt Nam trở thành quốc gia đối tác của BRICS.

Trong khi đó, bà Melinda Hoe, chuyên gia phân tích cấp cao phụ trách Việt Nam tại Tập đoàn Eurasia, nhận định với BBC News Tiếng Việt rằng đây thực sự là "một phần trong nỗ lực cân bằng giữa Mỹ, Trung Quốc và Nga của Việt Nam - đặc biệt trong bối cảnh Hà Nội đang tập trung đàm phán một thỏa thuận thương mại với Hoa Kỳ".

Theo bà Melinda, đáng chú ý là Việt Nam chưa từng công khai tuyên bố sẽ tìm cách gia nhập BRICS với tư cách thành viên chính thức.

Và, ngay cả nếu việc Việt Nam trở thành quốc gia đối tác của BRICS có thể khiến các nhà đầu tư phương Tây lo ngại, thì cam kết lâu dài của Việt Nam đối với thương mại tự do và mở cửa - bao gồm Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu (EU) - sẽ giúp xoa dịu những lo ngại tiềm tàng này, bà Melinda Hoe bình luận với BBC News Tiếng Việt.

Tiến sĩ Alexander Korolev, Giảng viên cao cấp ngành Chính trị và Quan hệ Quốc tế, Đại học New South Wales, Úc, đồng tình với quan điểm rằng việc Việt Nam trở thành đối tác của BRICS không mâu thuẫn với chính sách đối ngoại "ngoại giao cây tre".

Theo ông, việc hợp tác với BRICS chính là biểu hiện rõ nét của chính sách này, vì giúp Việt Nam đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại và tránh bị cuốn trực tiếp vào cuộc cạnh tranh ngày càng căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

"Đối với Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á khác, điều này mang ý nghĩa quan trọng vì nó cho thấy một sự chuyển hướng khỏi quan hệ đối tác với Mỹ/phương Tây và hướng tới các mối quan hệ đối tác khác đại diện cho một trật tự thế giới thay thế," theo nhà quan sát từ Úc.

Việc Việt Nam mới chỉ là quốc gia đối tác của BRICS chứ chưa phải thành viên cũng là một rào cản để Hà Nội được tiếp cận với các quyền lợi lớn hơn từ khối này, theo giới quan sát.

Bà Melinda chỉ ra rằng, với tư cách quốc gia đối tác, Việt Nam có thể đóng góp vào các tài liệu chính sách của BRICS và tham dự các cuộc họp (nếu được các quốc gia thành viên đồng ý), nhưng không có quyền ra quyết định chính thức.

Điều này hạn chế phạm vi ảnh hưởng của Việt Nam trong khối BRICS, chuyên gia từ Eurasia nói.

Cơ hội nào từ đồng tiền chung?

BRICS

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Cái được mà Việt Nam có thể thu về từ việc trở thành quốc gia đối tác của BRICS là tận dụng vị thế đối tác để tăng cường quan hệ với các thành viên và quốc gia đối tác khác trong BRICS, theo bà Melinda.

BRICS, vốn đang chiếm khoảng 41% quy mô kinh tế toàn cầu, được xem là đang có cơ hội tăng cường vị thế khi quan hệ nội bộ giữa Mỹ và phương Tây không êm ấm do chính sách thuế mới của Tổng thống Mỹ Donald Trump.

Trong bối cảnh đó, Tiến sĩ Alexander Korolev cho rằng sự tham gia tích cực hơn của Việt Nam với tư cách là đối tác sẽ giúp đa dạng hóa BRICS, bao gồm cả các mối quan hệ kinh tế, chiến lược và chính trị trong nội bộ khối này.

Ngoài ra, Việt Nam còn có thể đa dạng hóa các cơ hội kinh tế. Bên cạnh Trung Quốc, BRICS còn có các cường quốc khác như Nga, Ấn Độ, Brazil và Nam Phi, đồng nghĩa với việc Việt Nam có thêm nhiều cơ hội hợp tác mới với các nước này.

Điều này có thể giúp giảm bớt sự phụ thuộc vào thương mại với riêng Trung Quốc, đồng thời mở rộng thị trường và đối tác trong nhiều lĩnh vực kinh tế, theo ông Alexander Korolev.

Việt Nam từ lâu luôn muốn duy trì thế cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh, Việt Nam từ lâu luôn muốn duy trì thế cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc

Trong số các chiến lược để giành thế đối trọng với Mỹ và các quốc gia phương Tây, các thành viên BRICS được cho là đang tiếp tục bàn thảo để phát triển một đồng tiền chung.

Tổng thống Brazil từng lên tiếng các quốc gia không sử dụng đồng đô la thì không cần bị buộc phải giao dịch bằng đồng tiền này. Ông cũng từng ủng hộ việc thiết lập một đồng tiền chung cho khối Mercosur gồm các quốc gia Nam Mỹ.

Ông Luiz Inacio Lula da Silva nói rằng một đồng tiền chung của BRICS "sẽ mở rộng các lựa chọn thanh toán của chúng ta và giảm bớt các điểm dễ bị tổn thương."

Tuy nhiên, theo quyết định đưa ra vào tháng 2, kế hoạch thiết lập một đồng tiền chung sẽ được gác lại trong nhiệm kỳ Brazil làm chủ tịch luân phiên BRICS năm nay, theo Reuters.

Việc xây dựng một đồng tiền chung của BRICS từng được Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nam Phi, ông Lesetja Kganyago, tuyên bố là một "dự án chính trị".

Bên cạnh đó, hơn chục năm qua, các thành viên của BRICS bắt đầu đa dạng hóa tiền tệ trong dự trữ ngoại hối và tăng cường thanh toán trực tiếp bằng nội tệ của nhau trong giao dịch thương mại nhằm giảm sự phụ thuộc vào đồng đô la Mỹ.

BRICS cũng thành lập Ngân hàng Phát triển mới (New Development Bank - NDB), vốn điều lệ lên đến 100 tỉ USD, với tham vọng hỗ trợ các nước thành niên và thách thức vai trò của các định chế tài chính như World Bank và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF).

Tổng thống Brazil, ông Luiz Inacio Lula da Silva, từng lên tiếng rằng các quốc gia không sử dụng đồng đô la thì không cần bị buộc phải giao dịch bằng đồng tiền này.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh, Tổng thống Brazil, ông Luiz Inacio Lula da Silva, từng lên tiếng rằng các quốc gia không sử dụng đồng đô la thì không cần bị buộc phải giao dịch bằng đồng tiền này

Về "đồng tiền chung" của BRICS, Tony Norfield, nhà nghiên cứu độc lập, cố vấn kinh tế và chuyên gia tài chính từ Anh, nhận định với BBC News Tiếng Việt rằng "không có cơ sở thực tế nào để BRICS phát hành một đồng tiền như vậy.

Ông chỉ ra ý tưởng này chủ yếu xuất phát Nga trong hai năm qua, nhưng không phải từ các quan chức Nga tham gia BRICS, và rằng việc việc thay thế đồng đô la Mỹ là một quá trình khó khăn và phải mất nhiều năm.

"Lý do tôi hoài nghi là vì các quốc gia trong BRICS có tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng trưởng và cơ cấu kinh tế quá khác biệt để có thể áp dụng một đồng tiền chung. Điều này đúng cả với nhóm BRICS gốc (5 nước) và càng đúng hơn với nhóm mở rộng hiện nay," ông Norfield nói.

Thay vì một đồng tiền chung, chuyên gia từ Anh chỉ ra rằng BRICS từ lâu đã nỗ lực tiến tới thiết lập một đơn vị thanh toán chung trong giao dịch giữa các quốc gia của khối này.

Ông Philip Pilkington cũng chia sẻ quan điểm này khi bình luận rằng một đồng tiền chung của BRICS là "hoàn toàn khả thi trong dài hạn, nhưng chưa thể thực hiện ngay trong ngắn hạn".

"Tôi cho rằng bước đi đầu tiên sẽ là tiến tới các giao dịch không sử dụng đồng đô la Mỹ và hệ thống thanh toán thay thế SWIFT – và quá trình này đã bắt đầu diễn ra," ông Philip Pilkington nói.

Việc các quốc gia BRICS tiếp tục giao thương với nhau bằng nội tệ là một cách để giảm vai trò chi phối của đô la Mỹ, giúp giảm tác động của các lệnh trừng phạt từ Hoa Kỳ, và giúp các nước ít bị ảnh hưởng bởi chính sách kinh tế thất thường của Mỹ, đặc biệt là ở châu Á, theo các chuyên gia.

Với Việt Nam, ông Tony Norfield cho rằng việc giảm vai trò của USD trong thương mại và quan hệ kinh tế cũng là điều hợp lý do đây còn là "một biện pháp an ninh trong bối cảnh chính trị Mỹ nhiều bất ổn".

"Việt Nam nên chú ý đến những sáng kiến trong BRICS liên quan đến việc sử dụng đồng nội tệ trong thương mại," chuyên gia tài chính, ngân hàng đưa ra lời khuyên.

Nhưng ngay cả cơ chế giao dịch không sử dụng đồng đô la này cũng "tiềm ẩn rủi ro".

"Việc sử dụng một cơ chế tỷ giá hối đoái trung bình cho các đồng tiền trong thương mại sẽ không phản ánh đúng thực tế - vì đồng tiền một số nước có thể cao hoặc thấp hơn mức trung bình rất nhiều. Ngoài ra, nếu lấy vàng, dầu mỏ hoặc hàng hóa làm 'cơ sở thực' cho một đơn vị giao dịch chung thì sẽ thiên vị các quốc gia có mỏ vàng, trữ lượng dầu,..." ông Tony Norfield lý giải.

Ông Tony Norfield chỉ ra rằng, ngay cả Trung Quốc – nước có nhiều lý do nhất để lo ngại về chính sách trừng phạt của Mỹ – hiện chỉ có khoảng 54% hoạt động thương mại và tài chính được thực hiện bằng nhân dân tệ, trong khi 42% vẫn sử dụng đồng USD.

"Nguyên nhân là do đối tác thương mại của Trung Quốc (chủ yếu ở châu Á) vẫn dùng USD rất nhiều. Vai trò của USD chắc chắn sẽ giảm, nhưng cần thời gian," ông Tony Norfield nhận định

Vị chuyên gia này cho rằng giải pháp hợp lý hơn là các quốc gia nên tập trung ổn định nền kinh tế trong nước, giảm lạm phát và kiểm soát biến động sản lượng kinh tế.

"Đó sẽ là nền tảng cho mối quan hệ thương mại ổn định trong tương lai – điều này đúng với Việt Nam cũng như với các nước BRICS khác," ông nói.