Covid-19: Đêm Trung thu đông nghịt ở Hà Nội và bài học cho VN

Các bé thiếu nhi mừng Tết Trung thu tại một chung cư ở Hà Nội

Nguồn hình ảnh, Other

Chụp lại hình ảnh, Các bé thiếu nhi ăn mừng Tết Trung thu 2021 tại một chung cư ở Hà Nội
    • Tác giả, Hà Mi
    • Vai trò, Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ London

Cũng giống như rất nhiều người tại Việt Nam, đặc biệt tại những nơi bị ảnh hưởng nặng nề của Covid và đang trong tình trạng phong toả, tôi thực sự sốc vào ngày 22/9 thấy trên báo chí và mạng xã hội Việt Nam ảnh chụp và video cảnh người lớn, trẻ em ra đường đông nghẹt khu trung tâm thủ đô Hà Nội đêm Trung thu như chưa từng có Covid và giãn cách xã hội.

Có thể hiểu phần nào tâm lý vui mừng được "sổ lồng tung cánh" sau một thời gian dài thực hiện các Chỉ thị 15, 16, 19, với những quy định ngặt nghèo về giấy đi chợ, các chốt chặn nhiều khu vực bị phong toả v.v. vừa qua.

Nhưng không lẽ chỉ nhờ quyết định nới lỏng của chính quyền thành phố thông qua Chỉ thị 22 mà dường như Covid đã đột nhiên biến mất và hàng ngàn người đổ ra đường như chưa từng có những mất mát của bao gia đình có người thân qua đời vì Covid, và quên luôn cả việc bảo vệ chính mình và gia đình mình?

Nhiều người nói rằng giá Chỉ thị 22 ra chậm một ngày, sau Trung thu mới nới lỏng, thì có lẽ đã không xảy ra cảnh "trẩy hội" đó.

Nhưng tôi không nghĩ vậy. Đêm rằm Trung thu chỉ là cái cớ thêm vào để ra đường và chỉ là một phần rất nhỏ của vấn đề.

Thực hiện nới lỏng từng bước

Có thể thấy sự khác biệt về cách thức nới lỏng ở Hà Nội so với ở Anh Quốc, nhất là nhìn từ London, nơi tôi đang sống.

Sau một thời gian phong toả, khi chuẩn bị thực hiện nới lỏng, chính phủ Anh ngày 21/2 đã đưa ra cho dân chúng một lộ trình rất rõ ràng, gồm 4 giai đoạn, nhằm từng bước đưa cuộc sống của người dân trở lại bình thường.

Các giai đoạn được dự trù cách nhau ít nhất 5 tuần: bốn tuần thu thập dữ liệu để quyết định bước kế tiếp và một tuần để thông báo cho dân trước khi thực hiện.

Giải Ngoại hạng Anh chứng kiến các cổ động viên được quay lại sân xem các trận đấu sau khi Anh dỡ bỏ các hạn chế

Nguồn hình ảnh, James Williamson - AMA//Getty Images

Chụp lại hình ảnh, Giải Ngoại hạng Anh chứng kiến cổ động viên được quay lại sân xem các trận đấu sau khi Anh dỡ bỏ các hạn chế

Trong khi đó, Chỉ thị 22 đề ngày 20/9 và bắt đầu thực hiện từ 06h ngày 21/9.

Điều đáng nói là tuy đưa ra lộ trình, chính phủ Anh vẫn nhấn mạnh rằng quyết định bước nới lỏng kế tiếp sẽ phụ thuộc vào đánh giá số liệu dựa trên 4 tiêu chí chứ không phụ thuộc theo lịch trình đã đề ra.

Bốn tiêu chí này gồm:

  • Chương trình tiêm chủng tiếp tục thành công,
  • Bằng chứng xác nhận vaccines có hiệu quả giảm số nhập viện và tử vong ở người đã tiêm,
  • Tỷ lệ lây nhiễm không gây nguy cơ khiến bệnh viện quá tải, và
  • Đánh giá khoa học về nguy cơ các biến thể virus mới.

Các bước nới lỏng theo lộ trình tại Anh là rất cụ thể, ví dụ như bước đầu tiên vào ngày 8/3 là việc trẻ em đi học lại (ưu tiên hàng đầu), sau đó 29/3 cho phép gặp gỡ ngoài trời, tối đa 6 người hoặc 2 gia đình.

Bước kế tiếp là ngày 12/4 cho phép các cửa hàng không thiết yếu như cắt tóc, thư viện được mở cửa, được tổ chức tang lễ (30 người), cưới xin (15 người).

Tới ngày 17/5 bỏ các quy định về số người gặp gỡ ngoài trời (nhưng vẫn không quá 30 người) và cho phép gặp gỡ trong nhà (cũng tối đa 6 người hoặc hai gia đình), đồng thời các sự kiện thể thao ngoài trời được tổ chức trở lại với những quy định rất cụ thể đi kèm.

Chẳng hạn như giải Quần vợt Wimbledon hay Giải Ngoại hạng Anh với hàng chục ngàn người xem chỉ được tổ chức lại khi Anh đã tiêm đủ 2 mũi cho 60% - 70% dân số và người vào xem phải tuân thủ đòi hỏi xét nghiệm âm tính hoặc đã tiêm 2 mũi (trong đó mũi 2 phải được tiêm trước đó ít nhất 2 tuần).

Bước nới lỏng cuối cùng dự kiến vào ngày 21/6 sẽ bỏ phần lớn các hạn chế còn lại nhưng đã phải hoãn tới ngày 19/7 sau khi đánh giá dựa trên 4 tiêu chí đặt ra ban đầu.

Woman watches England semi final at Croydon Box Park

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Có lộ trình rõ ràng giúp tuân thủ tốt?

Tôi cho là việc chính phủ Anh Quốc đưa ra được một lộ trình rõ ràng và nêu rõ lý do phải có từng bước như vậy nên người dân cảm thấy có tương lai, biết lộ trình để có kế hoạch cho cuộc sống của mình, và nó có lẽ đã giúp người dân dễ chấp nhận và đồng lòng với chính phủ trong việc tuân thủ các quy định đưa ra.

Phải nói rằng, tuy không còn các hạn chế như trước đây nhưng ý thức của người dân Anh về phòng tránh Covid-19 vẫn không thay đổi.

Thói quen mang khẩu trang theo người và lấy ra đeo mỗi khi vào không gian kín như cửa hàng, siêu thị vẫn được đa số người dân tiếp tục thực hiện.

Khi đi bộ ngoài đường, ai cũng có ý thức dừng bước, tránh hẳn sang một bên, nhường đường cho người đi ngược chiều chứ không thản nhiên đi ngang qua nhau như thời trước Covid nữa.

Tương tự như Anh, Singapore khi nới lỏng sau phong toả cũng có lộ trình rất cụ thể với các quy định rõ ràng cho từng giai đoạn (như số người được gặp ngoài đường hay trong nhà, quán ăn khi được mở cửa lại cũng hạn chế số người được ngồi chung bàn, vào các cửa hàng, siêu thị vẫn phài đeo khẩu trang v.v.)

Đọc Chỉ thị 22 thấy có quy định "không tụ tập từ 10 người trở lên ngoài phạm vi công sở, trường học, bệnh viện; yêu cầu thực hiện khoảng cách tối thiểu 2m giữa người với người tại các địa điểm công cộng".

Thế nhưng, cảnh xếp hàng rồng rắn mua bánh Trung thu và việc đổ ra đường đông nghẹt đêm Trung thu tại Hà Nội khiến tôi chợt nghĩ không lẽ các nguyên tắc căn bản về phòng chống Covid-19 như sát khuẩn, khẩu trang, khoảng cách 2m đã không được nhấn mạnh lại khi Chỉ thị 22 được công bố, hay người dân chỉ quan tâm điểm mấu chốt mà họ đang mong đợi là được ra đường không cần giấy phép mà quên hết khẩu hiệu 5K vẫn được nhắc tới tại Việt Nam?

Tâm lý chủ quan sau khi tiêm chủng?

Cho tới nay Hà Nội và TP HCM là hai thành phố có tỉ lệ tiêm chủng phòng chống Covid-19 cao nhất trong cả nước và việc "đã tiêm một mũi" phải chăng đã phần nào dẫn tới tâm lý chủ quan, coi thường bệnh dịch nên đã đổ ra đường như vậy?

Từ đầu tháng 9, Hà Nội tăng tốc tiêm chủng.

Hình chụp màn hình tivi cảnh đêm Trung thu tại Hà Nội

Nguồn hình ảnh, Other

Chụp lại hình ảnh, Hình chụp màn hình tivi cảnh đêm Trung thu tại Hà Nội

Theo số liệu ngày 23/9 trên Cổng thông tin tiêm chủng Covid của chính phủ thì dân số trên 18 tuổi của Hà Nội là 5,75 triệu, được phân bổ 7,34 triệu liều vaccines và nay đã tiêm được gần 6,5 triệu liệu, đạt tỉ lệ tiêm ít nhất 1 mũi/dân số là 113%.

Thế nhưng có lẽ nhiều người không biết rằng sau khi tiêm 1-2 tuần vaccine mới có tác dụng, và cần phải tiêm đủ 2 mũi mới đạt hiệu quả tối đa.

Phóng viên khoa học và môi trường của BBC, Laura Foster, trích dẫn số liệu từ một nghiên cứu lớn nhất từ trước tới nay do Đại học Oxford và Cục Thống kê quốc gia của Anh (NSO) thực hiện.

Nghiên cứu thu thập số liệu từ 2,5 triệu xét nghiệm với 743.500 người cho thấy hai tuần sau khi tiêm mũi 2 vaccine Pfizer-BioNTech đạt hiệu quả 93% đối với lây nhiễm có triệu chứng, trong khi vaccine Oxford-AstraZeneca (AZ) đạt 71%.

Nhưng sau đó tính hiệu quả của vaccine Pfizer-BioNTech giảm dần xuống còn tương tự vaccine AZ trong khi AZ vẫn duy trì hiệu quả này.

Cần nói thêm rằng, tiêm chủng có thể khiến người được tiêm không phát triển bệnh nhưng vẫn có thể là nguồn lây truyền bệnh cho người khác.

Chưa kể không có vaccine nào đạt hiệu quả 100% về chống lây nhiễm, nên người đã tiêm vẫn có thể rơi vào số % còn lại mà vaccine không có hiệu quả.

Vì thế, giới khoa học tại Anh vẫn khuyến cáo khi mới tiêm mũi 1 vẫn cần ứng xử như khi chưa tiêm và kể cả sau khi tiêm 2 mũi cũng vẫn phải cẩn trọng, tiếp tục thực hiện các nguyên tắc phòng chống như sát khuẩn, khẩu trang, khoảng cách... nhất là khi tỉ lệ tiêm chủng trong dân số còn thấp, và như vậy không chỉ bảo vệ chính mình mà còn bảo vệ cả cộng đồng.

Những tiêu chuẩn này thiết nghĩ cũng rất cần được áp dụng ở Việt Nam hay các nước khác, khi mà dịch Covid vẫn chưa mất đi.

Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm của tác giả hiện đang sống tại London, Anh Quốc.

Triển khai vaccine toàn cầu

Bảng cuộn
Thế giới
61
12.120.524.547
Trung Quốc
87
3.403.643.000
Ấn Độ
66
1.978.918.170
Hoa Kỳ
67
596.233.489
Brazil
79
456.903.089
Indonesia
61
417.522.347
Nhật Bản
81
285.756.540
Bangladesh
72
278.785.812
Pakistan
57
273.365.003
Việt Nam
83
233.534.502
Mexico
61
209.179.257
Đức
76
182.926.984
Nga
51
168.992.435
Philippines
64
153.852.751
Iran
68
149.957.751
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
73
149.397.250
Thổ Nhĩ Kỳ
62
147.839.557
Pháp
78
146.197.822
Thái Lan
76
139.099.244
Italy
79
138.319.018
Hàn Quốc
87
126.015.059
Argentina
82
106.075.760
Tây Ban Nha
87
95.153.556
Ai Cập
36
91.447.330
Canada
83
86.256.122
Colombia
71
85.767.160
Peru
83
77.892.776
Malaysia
83
71.272.417
Saudi Arabia
71
66.700.629
Myanmar
49
62.259.560
Chile
92
59.605.701
Đài Loan
82
58.215.158
Úc
84
57.927.802
Uzbekistan
46
55.782.994
Morocco
63
54.846.507
Ba Lan
60
54.605.119
Nigeria
10
50.619.238
Ethiopia
32
49.687.694
Nepal
69
46.888.075
Campuchia
85
40.956.960
Sri Lanka
68
39.586.599
Cuba
88
38.725.766
Venezuela
50
37.860.994
Nam Phi
32
36.861.626
Ecuador
78
35.827.364
Hà Lan
70
33.326.378
Ukraine
35
31.668.577
Mozambique
44
31.616.078
Bỉ
79
25.672.563
UAE
98
24.922.054
Bồ Đào Nha
87
24.616.852
Rwanda
65
22.715.578
Thụy Điển
75
22.674.504
Uganda
24
21.756.456
Hy Lạp
74
21.111.318
Kazakhstan
49
20.918.681
Angola
21
20.397.115
Ghana
23
18.643.437
Iraq
18
18.636.865
Kenya
17
18.535.975
Áo
73
18.418.001
Israel
66
18.190.799
Guatemala
35
17.957.760
Hong Kong
86
17.731.631
Cộng hòa Czech
64
17.676.269
Romania
42
16.827.486
Hungary
64
16.530.488
Dominican Republic
55
15.784.815
Thụy Sĩ
69
15.759.752
Algeria
15
15.205.854
Honduras
53
14.444.316
Singapore
92
14.225.122
Bolivia
51
13.892.966
Tajikistan
52
13.782.905
Azerbaijan
47
13.772.531
Đan Mạch
82
13.227.724
Belarus
67
13.206.203
Tunisia
53
13.192.714
Côte d'Ivoire
20
12.753.769
Phần Lan
78
12.168.388
Zimbabwe
31
12.006.503
Nicaragua
82
11.441.278
Na Uy
74
11.413.904
New Zealand
80
11.165.408
Costa Rica
81
11.017.624
Ireland
81
10.984.032
El Salvador
66
10.958.940
Lào
69
10.894.482
Jordan
44
10.007.983
Paraguay
48
8.952.310
Tanzania
7
8.837.371
Uruguay
83
8.682.129
Serbia
48
8.534.688
Panama
71
8.366.229
Sudan
10
8.179.010
Kuwait
77
8.120.613
Zambia
24
7.199.179
Turkmenistan
48
7.140.000
Slovakia
51
7.076.057
Oman
58
7.068.002
Qatar
90
6.981.756
Afghanistan
13
6.445.359
Guinea
20
6.329.141
Lebanon
35
5.673.326
Mông Cổ
65
5.492.919
Croatia
55
5.258.768
Lithuania
70
4.489.177
Bulgaria
30
4.413.874
Syria
10
4.232.490
Lãnh thổ Palestine
34
3.734.270
Benin
22
3.681.560
Libya
17
3.579.762
Niger
10
3.530.154
DR Congo
2
3.514.480
Sierra Leone
23
3.493.386
Bahrain
70
3.455.214
Togo
18
3.290.821
Kyrgyzstan
20
3.154.348
Somalia
10
3.143.630
Slovenia
59
2.996.484
Burkina Faso
7
2.947.625
Albania
43
2.906.126
Georgia
32
2.902.085
Latvia
70
2.893.861
Mauritania
28
2.872.677
Botswana
63
2.730.607
Liberia
41
2.716.330
Mauritius
74
2.559.789
Senegal
6
2.523.856
Mali
6
2.406.986
Madagascar
4
2.369.775
Chad
12
2.356.138
Malawi
8
2.166.402
Moldova
26
2.165.600
Armenia
33
2.150.112
Estonia
64
1.993.944
Bosnia and Herzegovina
26
1.924.950
Bhutan
86
1.910.077
Bắc Macedonia
40
1.850.145
Cameroon
4
1.838.907
Kosovo
46
1.830.809
Cyprus
72
1.788.761
Timor-Leste
52
1.638.158
Fiji
70
1.609.748
Trinidad và Tobago
51
1.574.574
Jamaica
24
1.459.394
Macao
89
1.441.062
Malta
91
1.317.628
Luxembourg
73
1.304.777
Nam Sudan
10
1.226.772
Cộng hòa Trung Phi
22
1.217.399
Brunei Darussalam
97
1.173.118
Guyana
58
1.011.150
Maldives
71
945.036
Lesotho
34
933.825
Yemen
1
864.544
Congo
12
831.318
Namibia
16
825.518
Gambia
14
812.811
Iceland
79
805.469
Cape Verde
55
773.810
Montenegro
45
675.285
Comoros
34
642.320
Papua New Guinea
3
615.156
Guinea-Bissau
17
572.954
Gabon
11
567.575
Eswatini
29
535.393
Suriname
40
505.699
Samoa
99
494.684
Belize
53
489.508
Equatorial Guinea
14
484.554
Đảo Solomon
25
463.637
Haiti
1
342.724
Bahamas
40
340.866
Barbados
53
316.212
Vanuatu
40
309.433
Tonga
91
242.634
Jersey
80
236.026
Djibouti
16
222.387
Seychelles
82
221.597
São Tomé và Príncipe
44
218.850
Isle of Man
79
189.994
Guernsey
81
157.161
Andorra
69
153.383
Kiribati
50
147.497
Cayman Islands
90
145.906
Bermuda
77
131.612
Antigua and Barbuda
63
126.122
Saint Lucia
29
121.513
Gibraltar
123
119.855
Đảo Faroe
83
103.894
Grenada
34
89.147
Greenland
68
79.745
Saint Vincent và Grenadines
28
71.501
Liechtenstein
69
70.780
Quần đảo Turks và Caicos
76
69.803
San Marino
69
69.338
Dominica
42
66.992
Monaco
65
65.140
Saint Kitts and Nevis
49
60.467
Quần đảo Virgin thuộc Anh
59
41.198
Đảo Cook
84
39.780
Anguilla
67
23.926
Nauru
79
22.976
Burundi
0,12
17.139
Tuvalu
52
12.528
Saint Helena
58
7.892
Montserrat
38
4.422
Đảo Falkland
50
4.407
Niue
88
4.161
Tokelau
71
1.936
Đảo Pitcairn
100
94
Bắc Hàn
0
0
Eritrea
0
0
Lãnh thổ Ấn Độ Dương thuộc Anh
0
0
South Georgia and Sandwich Is.
0
0
Vatican
0
0

Cập nhật browser để xem

Triển khai vaccine toàn cầu