Việt Nam: Giải cứu nông sản – Tại sao đến hẹn lại lên?

Nguồn hình ảnh, Other
Sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ là một trong những yếu tố cốt lõi trong việc xoá đói giảm nghèo, cùng với tạo việc làm và giữ gìn hệ sinh thái ở các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, nó còn là nguồn cung quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức khi xây dựng chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn, từ việc giảm nghèo ở các nước đang phát triển đến đảm bảo nguồn cung thực phẩm cho các nước phát triển.
Mạng lưới thu mua nông sản ở Việt Nam nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thông thương giữa các hộ nông dân và người tiêu dùng.
Hằng năm, điệp khúc giải cứu nông sản luôn được đưa ra, từ thanh long, dưa hấu, đến sầu riêng, mít, cam, v.v.
Điều đó đặt ra các câu hỏi cần trả lời một cách cấp thiết: Thực trạng cụ thể của hệ thống thu mua nông sản? Đâu là nguyên nhân và giải pháp?
Một nhóm nhà nghiên cứu ở Đại học De Montfort, vương quốc Anh, dẫn đầu bởi PGS Lương Tuấn Anh, đã cùng hợp tác với Học viện nông nghiệp Việt Nam và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, để tiến hành phân tích cũng như đánh giá khả năng phục hồi mạng lưới mua bán nông sản ở Việt Nam.
Dự án được sự tài trợ của Viện Hàn Lâm vương quốc Anh (British Academy) từ năm 2021 đến 2023.
Khảo sát được thực hiện ở ba xã là Vân Hội (huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc), Văn Đức (huyện Gia Lâm, Hà Nội), và thôn Côi Hạ, xã Phạm Trần (huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương).
Trong khi Vân Hội và Văn Đức thuộc vùng ven đô thị của hai thành phố Vĩnh Phúc và Hà Nôi, Phạm Trần thuôc khu vực nông thôn xa thành phố.
Trồng trọt, sản xuất nông nghiệp là nguồn thu nhập chính đã tồn tại ở ba xã này hơn ba mươi năm.

Nguồn hình ảnh, Tran Uy
Thông tin về nhân khẩu học, các loại rau được trồng, thu nhập từ trồng trọt được thu thập từ mẫu dữ liệu gồm 176, 180 và 123 hộ gia đình ở Văn Hội, Văn Đức và Phạm Trần. Bên cạnh đó, các hình thức, chiến lược mua bán, mối quan hệ với người mua cũng như các yếu tố hành vi cũng được khảo sát.
Kết quả phân tích và đánh giá cho thấy tính đa dạng trong mạng lưới mua bán ở ba xã, tuy nhiên, nhìn chung khả năng phục hồi của mạng lưới mua bán nông sản ở nông thôn Việt Nam còn kém.
Trung bình, mỗi hộ gia đình không bán nông sản cho hơn hai thương lái. Đặc biệt, quan hệ giữa nông dân và thương lái đã kéo dài trung bình hơn mười năm, và thương lái thường xuyên đến thăm nơi canh tác.
Mỗi thương lái ở Văn Đức và Vân Hội hợp tác với ít hơn mười hộ gia đình. Ở Văn Đức, hơn một nửa hộ gia đình được khảo sát bán nông sản cho một thương lái duy nhất và hơn ba phần tư hộ chỉ bán nông sản qua một kênh thương mại (thương lái, hoặc hợp tác xã, hoặc chợ địa phương).
Ngược lại, ở Vân Hội, trung bình mỗi hộ gia đình mua bán với hơn hai thương lái và thông qua nhiều kênh khác nhau. Do đó, so với Văn Đức, mạng lưới mua bán ở Vân Hội có khả năng phục hồi tốt hơn.
Mạng lưới mua bán ở Phạm Trần (với tổng số thương lái hoạt động là tám, nhỏ hơn đáng kể so với hai xã trên) như trường hợp trung gian của hai trường hợp trên. Ở Phạm Trần, mạng lưới mua bán được chi phối bởi chủ yếu ba thương lái mà trong đó mỗi thương lái có có khả năng thu mua nông sản của hơn 50 hộ.
Giới tính và tính lo ngại rủi ro là hai trong ba yếu tố cho thấy khả năng tác động tiêu cực đến việc mở rộng mối quan hệ cũng như đối tác của nông dân.
Nam giới thường là chủ gia đình, nhờ vào các hoạt động bên ngoài mà có thể có nhiều mối quan hệ. Trong khi đó, nữ giới thường chịu trách nhiệm với công việc nhà.
Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng người vợ tham gia vào hầu hết các quyết định mua bán trong gia đình. Ở Vân Hội và Văn Đức, các hộ gia đình mà người chồng quyết định việc bán cho thương lái dường như hợp tác với nhiều thương lái hơn so với những hộ gia đình mà quyền bán được thực hiện bởi vợ hoặc cả hai vợ chồng. Điều này xuất hiện rõ nét hơn ở Phạm Trần, mặc dù chỉ có một số nhỏ hộ gia đình việc bán cho thương lái được thực hiện bởi người chồng.
Đặc biệt, dựa trên phân tích hồi quy, chỉ ở Phạm Trần cho thấy kết quả có ý nghĩa thống kê. Do đó, có sự đa dạng trong mối liên hệ giữa giới tính của người quyết định bán và số lượng thương lái mà mỗi hộ gia đình tương tác với.
Tương tự, dự án cũng đánh giá ảnh hưởng của mức độ lo ngại rủi ro và thị hiếu về thời gian của người được phỏng vấn đối với việc hình thành mua bán và mạng lưới giao dịch.
Biểu đồ phân bố số lượng thương lái dựa trên mức độ lo ngại rủi ro của người được phỏng vấn cho thấy những cá nhân không thích rủi ro có ít khả năng phụ thuôc chỉ duy nhất một thương lái, nhưng cũng không tương tác với nhiều hơn ba thương lái.
Điều này phù hợp với các hộ gia đình không thích rủi ro muốn đa dạng việc mua bán (không dựa vào chỉ một thương lái) nhưng thận trọng việc thay đổi các mối quan hệ (dẫn đến việc không hợp tác với rất nhiều thương lái).
Nhóm nghiên cứu cũng thấy rằng những người có tính trì hoãn công việc (so với những người cố gắng hoàn thành công việc ngay lập tức) trong khảo sát về thị hiếu thời gian có nhiều khả năng phụ thuộc vào một thương lái.
Sự trì hoãn thường tạo ra sự chậm chạp trong thay đổi. Phân tích hồi quy cho thấy chỉ ở Vân Hội, nơi mà mạng lưới mua bán với khả năng phục hồi cao nhất trong ba xã, những người không thích rủi ro tương tác với ít thương lái hơn.
Khả năng phục hồi kém của mạng lưới ở Phạm Trần và Văn Đức có thể là do các yếu tố địa lý, văn hóa và lịch sử tạo ra những hạn chế mà dẫn đến việc thái độ lo ngại rủi ro ít liên quan hơn trong việc hình thành mạng lưới.
Ở Vân Hội, ngược lại, nhóm nghiên cứu thấy rằng những người không sợ rủi ro tìm kiếm cơ hội giao dịch nhiều hơn. Điều này sẽ tăng khả năng phục hồi mạng lưới. Nhìn chung, tính lo ngại rủi ro có ảnh hưởng đến mạng lưới mua bán hơn là thị hiếu về thời gian.
Dưa trên kết quả nghiên cứu mà mạng lưới giao dịch ở ba xã có khả năng phục hồi kém, cùng với bằng chứng thực nghiệm cho thấy ảnh hưởng của yếu tố hành vi và giới tính, nhóm nghiên cứu tin rằng áp dụng công nghệ giám sát là một giải pháp tiềm năng.
Công nghệ giám sát cho phép người nông dân ghi lại những công đoạn chăm sóc cây trồng trên điện thoại cầm tay một cách đơn giản và tiện lợi, mà có thể giúp giảm rủi ro trong thực hiện hợp đồng và thời gian đi lại giám sát của thương lái.
Do đó, nó có thể góp phần cung cấp một lộ trình giúp đơn giản hoá mối quan hệ giữa thương lái và nông dân.