Thế lưỡng nan cho cải cách để tư pháp Việt Nam độc lập

Hà Nội ngày 2/6

Nguồn hình ảnh, AFP

Chụp lại hình ảnh, Hà Nội ngày 2/6
    • Tác giả, Duy Đinh
    • Vai trò, Gửi cho BBC từ Geneva, Thụy Sĩ

Cải cách tư pháp là câu chuyện không mới ở Việt Nam nhưng trong thời gian qua đã nóng lên khi mà các vụ án nghiêm trọng làm lộ ra những điểm hạn chế của nền tư pháp, mà trung tâm là hệ thống Tòa án nhân dân (TAND).

Khi nói tới vấn đề cải cách tư pháp, có hai hướng tiếp cận - thể chế và kỹ thuật. Về mặt kỹ thuật, các vấn đề như đào tạo thẩm phán, chất lượng dịch vụ pháp lý, tính minh bạch của Tòa án đã được Liên Hợp Quốc nhấn mạnh. Bên cạnh đó, một số chuyên gia ở Việt Nam cũng đã đưa ra những đề xuất có tính kỹ thuật liên quan tới quyền im lặng và vai trò của luật sư trong quá trình điều tra.

Đây đều là những đề xuất rất thiết thực, chắc chắn sẽ làm thay đổi đáng kể diện mạo của nền tư pháp nếu được thực hiện thành công. Không những thế, đây còn là những giải pháp khả thi trong ngắn hạn vì về cơ bản chúng không mâu thuẫn với các ràng buộc thể chế.

Một điểm dễ thấy nhất là vấn đề năng lực thẩm phán. Chất lượng thẩm phán các địa phương còn yếu kém là điều đã được công khai thừa nhận. Chính đại biểu Quốc hội Lưu Bình Nhưỡng đã thẳng thắn cho biết ông từng gặp "những bản án được viết như vỡ lòng". Do đó, nâng cao năng lực thẩm phán là điều hết sức cần thiết. Tương tự các vấn đề kỹ thuật khác cũng cần được triển khai không chậm trễ.

Người lao động, ảnh ngày 1/6

Nguồn hình ảnh, Reuters

Chụp lại hình ảnh, Người lao động, ảnh ngày 1/6

Tuy nhiên, giả sử Việt Nam giải quyết được hết những vấn đề kỹ thuật đó, liệu cuộc cải cách tư pháp đã hoàn thành chưa? Câu trả lời là chưa, bởi gút mắc lớn nhất của ngành tư pháp vẫn nằm ở thể chế. Sự độc lập của Tòa án là yêu cầu căn bản của một nền tư pháp tiến bộ nhưng điều đó lại mâu thuẫn với thể chế chính trị của Việt Nam.

Về mặt nguyên tắc, các thẩm phán phải hoàn toàn độc lập, chỉ tuân theo pháp luật để xét xử mới đảm bảo được sự công tâm, công bằng. Không thể có một nền tư pháp độc lập khi mà các thẩm phán vẫn là công chức nhà nước và là đảng viên (dù luật không bắt buộc). Trước tòa, họ nhân danh nhà nước để xét xử, nhưng khi trút bỏ chiếc áo thẩm phán họ vẫn chỉ là các công chức, đảng viên bình thường, chịu sự phân công, chỉ đạo của đảng ủy, chính quyền các cấp.

Hà Nội ngày 2/6

Nguồn hình ảnh, AFP

Chụp lại hình ảnh, Hà Nội ngày 2/6

Sự việc ông Lương Hữu Phước tự sát tại TAND tỉnh Bình Phước sau phiên tòa ngày 29/5 là một thí dụ điển hình. Trong lúc vụ án còn đang cần xem xét lại, ngay ngày hôm sau Ban Tuyên giáo tỉnh này đã tổ chức họp báo, khẳng định phiên tòa phúc thẩm đã xét xử công tâm, khách quan. Điều đó phần nào cho thấy tư pháp khó có thể độc lập trong sự "lãnh đạo toàn diện" của đảng cầm quyền.

Bản thân Chánh án TAND tối cao thường phải là một ủy viên trung ương và vị trí công tác này chỉ là một bước đệm trong sự nghiệp chính trị của người nắm giữ nó. Trong điều kiện đó, rất khó để Chánh án không bị động cơ chính trị chi phối. Đây cũng là vấn đề chung của cả cơ quan điều tra và công tố. Chính Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Lê Minh Trí đã từng đề cập tới khó khăn khi phải cân nhắc giữa pháp luật và yêu cầu chính trị.

Chưa kể, việc bổ nhiệm Chánh án TAND tối cao nặng tính chính trị như hiện nay sẽ làm trầm trọng thêm sự bất cập của nền tư pháp. Khác với các Phó Chánh án, Chánh án TAND tối cao không cần đi lên theo ngành dọc, tức không cần có kinh nghiệm làm thẩm phán. Chánh án Nguyễn Hòa Bình cũng không phải ngoại lệ: ông có gần 30 năm công tác trong ngành công an và chưa từng có kinh nghiệm xét xử. Việc Chánh án TAND tối cao không phải thẩm phán hoặc chỉ được bổ nhiệm thẩm phán sau khi được giao nhiệm vụ chính trị này là điều cực kỳ nghiêm trọng vì lẽ ra người đứng đầu hệ thống TAND cần phải là một thẩm phán giàu kinh nghiệm.

Như vậy có thể nói điểm yếu nhất của nền tư pháp Việt Nam, mà trung tâm là hệ thống TAND, là sự thiếu độc lập và bị chính trị hóa. Song để thay đổi điều đó trong thể chế hiện nay chắc chắn là không thể.

Trong bối cảnh đó, cần đặt câu hỏi: liệu có nên trao thêm quyền cho TAND hay không?

Dù vẫn tin rằng tính độc lập của TAND là cái đích phải hướng tới, tôi nhận thấy trao thêm quyền lực cho hệ thống TAND trong khi các yếu tố khác không đổi là điều cần suy xét. Với đội ngũ thẩm phán còn nhiều hạn chế, nếu tăng tính độc lập của hệ thống TAND thì tình trạng oan sai còn nghiêm trọng đến mức nào? Chưa kể, trao thêm quyền lực cho một hệ thống TAND thiếu độc lập thực chất là trao thêm quyền lực cho đảng cầm quyền. Đó chính là thế lưỡng nan của nền tư pháp Việt Nam - quyền lực của TAND đang bị hạn chế, nhưng gia tăng quyền lực của TAND lại tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Dường như chính cơ chế hiện hành lại giúp các phân nhánh của ngành tư pháp kiềm chế lẫn nhau. Viện kiểm sát không chỉ giữ quyền công tố mà còn có chức năng kiểm sát tư pháp, tức là kiểm sát cả TAND. Trong một phiên tòa, thẩm phán có thể bác cáo trạng của Viện kiểm sát, nhưng ngoài phiên tòa Viện kiểm sát lại có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của TAND.

Ở cấp độ cao nhất, Quốc hội cũng có thẩm quyền nhất định với hệ thống TAND. Không chỉ buộc Chánh án TAND tối cao phải giải trình, Quốc hội thậm chí có thể lập các đoàn công tác trực tiếp thẩm tra các vụ việc mà TAND đã xét xử. Ủy ban Thường vụ Quốc hội chứ không phải TAND tối cao mới là cơ quan có quyền giải thích pháp luật. Ủy ban này cũng có quyền yêu cầu Hội đồng thẩm phán TAND tối cao xem lại phán quyết giám đốc thẩm của mình.

Bằng cách này hay cách khác, các cơ quan này sẽ vừa phối hợp vừa kiềm chế hệ thống TAND. Rõ ràng sự kiềm chế này không đúng với nguyên tắc độc lập tư pháp nhưng nó có tác dụng giảm bớt rủi ro oan sai và lạm quyền của TAND.

Dù sao việc trao quyền giám sát TAND cho Quốc hội cũng là giải pháp tương đối phù hợp với Việt Nam. Người dân dường như vẫn mong muốn cơ quan đại diện cho họ có thẩm quyền giám sát tối cao đối với hoạt động xét xử của TAND. Phản ứng của cử tri sau phiên tòa giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải là một minh chứng.

Dù tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội vẫn là đảng viên nhưng trong những năm gần đây đã xuất hiện ngày càng nhiều tiếng nói phản biện trong Quốc hội. Do đó, sự tăng cường giám sát của Quốc hội có thể sẽ trở thành giải pháp trung hạn cho tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, đang sống ở Geneva, Thụy Sĩ.