Trận Điện Biên: Đại bác Việt Minh giỏi hơn hậu duệ pháo binh của Hoàng đế Napoleon

Nguồn hình ảnh, Jean Louis Rondy
- Tác giả, Phạm Cao Phong
- Vai trò, Gửi bài tới Diễn Đàn BBC từ Paris, Pháp
Nhân 69 năm ngày kết thúc trận Điện Biên Phủ (07/05/1954), tôi xin tìm lại các sách của Pháp và VN để đánh giá tài pháo binh của Việt Minh trong trận Điện Biên Phủ khi họ đọ sức với Tiểu đoàn 2 pháo Thuộc địa số 4, đơn vị cựu nhất của Pháp ở châu Á.
Đánh giá về chiến bại của Pháp tại trận Điện Biên, sử gia Jules Roy (1907-2000) trong cuốn sách 'La Bataille de Dien Bien Phu (Julliard, 1963, Albin Michel, 1989) viết:
"Tôi xin phép được thưa với các vị tướng tá cao cấp của quân đội có trách nhiệm bảo vệ phương Tây: một ngày nào đó, nếu các vị phải tự vệ chống lại họ, xin đừng trông cậy vào nguyên tắc chiến lược hay tên lửa của các vị như Navarre từng trông cậy ở pháo binh."
Jules Roy viết tác phẩm này vào năm 1963, sau khi lặn lội đến Điện Biên tìm tư liệu. Từ đó cho đến nay, sách của ông vẫn là một trong những tác phẩm kinh điển viết về chiến tranh Đông Dương hay nhất, được tái bản với số lượng lớn.
Ở đây tôi muốn nói riêng về chiến công của pháo binh Việt Minh, nhân tố quan trọng trong chiến dịch Điện Biên.
Trên chiến địa này, Việt Minh phải đọ sức với Tiểu đoàn 2 pháo Thuộc địa số 4, đơn vị cựu nhất của Pháp ở châu Á. Lính của tiểu đoàn này đã có mặt trong chiến dịch ở Bắc Kỳ những năm 1883-1885, tham gia xâm lăng Trung Quốc năm 1890 ở Thiên Tân, Bắc Bình. Đó là những pháo thủ giỏi, thiện chiến nhất của Pháp.
Khi đọc những trang trong Đại Nam Thục lục, tôi tìm thấy những tư liệu viết sau giai đoạn triều đình Huế ký hòa ước Harmand 25.8.1883, còn được gọi là Hoà ước Quý Mùi (1883).
Lúc đó, Pháp có cử sĩ quan sang truyền kinh nghiệm sử dụng pháo bắn theo phương vị, tọa độ cho pháo thủ Việt Nam. Một thời gian thấy học mãi không vào nên lính Việt bỏ luôn, thích bắn bằng cách ngắm qua đầu nòng. Các tài liệu bằng tiếng Pháp viết về kỹ thuật không tìm ra người dịch, thuê dịch thì giá quá đắt nên cũng xếp xó.
Vậy mà đối đầu tại Điện Biên, đại bác Việt Minh thu của Pháp lại hạ gục hậu duệ của pháo binh Napoleon. Họ đã tước đoạt sự hãnh diện và làm lu mờ những trang quân sử vẻ vang của pháo binh Pháp.

Nguồn hình ảnh, Getty Images
Không chỉ có thế, các binh lính trong 'Bán lữ đoàn 13 Quân đoàn ngoại quốc', ta quen gọi là lính Lê dương thành phần có rất nhiều lính Đức sắc phục SS.
Sắc lính chẳng ngán lấy con số được cho là rủi này làm phiên hiệu tham gia hầu hết các chiến dịch lớn của Pháp trong Thế chiến II, quần nhau với lính phát xít từ vùng băng giá Na Uy đến sa mạc Bir Hakeim, Syria, Italia. Chiếc cầu gần tháp Eiffel ở Paris mang tên Bir Hakeim là để vinh danh chiến thắng của Lữ đoàn 13 trước quân Đức. Thua ở Điện Biên, bài hát 'Dưới ánh mặt trời nóng bỏng châu Phi' của bán lữ đoàn 13 lê dương cũng không còn được sắc lính này hát.
Sau năm 1945, sắc lính áo đen SS của Đức không được ân xá do phạm nhiều tội ác man rợ quá trên toàn châu Âu phần lớn đầu quân cho các tiểu đoàn lính Lê dương Pháp dưới những tên và lý lịch mới toanh, xóa dấu tích quá khứ. Nên nói Việt Minh chống lính thiện chiến phát xít Đức cũng không quá.
Khúc dạo đầu của bản giao hưởng pháo binh Việt Minh tại Điện Biên chính xác như lưỡi dao mổ của một phẫu thuật gia đại tài: Jules Gaucher chỉ huy trưởng Cụm cơ động số 9 toàn bộ phân khu Trung tâm gồm các cứ điểm mang tên các cô gái Pháp: Béatrice, Claudine, Dominique, Éliane, Huguette tử thương ngay loạt đạn đầu của đại bác Việt Minh hồi 19h45.
Cái chết của Gaucher cùng với Pégot, chỉ huy tiểu đoàn Lê dương số III/13e DBLE, bị giết trong hoàn cảnh tương tự, là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất thủ nhanh chóng của cứ điểm Him Lam được Pháp gọi 'Béatrice' tại Điện Biên vào đêm 13 rạng ngày 14 tháng 3 năm 1954.
Jules Roy kể lại thất bại chung cuộc được báo trước của tập đoàn cứ điểm dưới làn pháo đối phương:
"Langlais đang tắm vòi sen trong nhánh hầm nối với vị trí chỉ huy, bỗng nghe tiếng nổ vang rền như sấm và bầu trời bị xé toạch ra, làm ông phải nhào xuống hầm trú ẩn. Langlais vội vàng xỏ quân phục. Mặt đất rung dưới chân ông, đất bụi rơi lả tả. Tiếng nổ làm vách hầm chao đảo, tiếng động giống như con tầu vỡ đôi và đang chìm xuống biển sâu. Mọi ánh sáng tắt ngấm. Langlais không nghi ngờ gì nữa. Đó là những tiếng nổ của đạn pháo nặng, bọn Việt đã đúng hẹn.

Nguồn hình ảnh, Jean Louis Rondy
Bầu trời như sụp đổ với hàng vạn ngôi sao đè lên nóc hầm chỉ huy làm mọi người nín thở. Chắc chưa phải tất cả các ngôi sao đã rơi xuống, bởi vì họ còn trông thấy mấy vì sao lấp lánh trong đêm đen bỗng mở ra trước mắt họ, qua lớp sắt lát nắp hầm bị pháo thổi bay. Một quả đạn 105 ly khác ghim vào vách hầm mà không nổ, phía trên bờ vai viên trung úy phụ tá, trông như một vết rìu khủng khiếp.
Liên lạc với các đại đội ở cứ điểm Him Lam không trả lời. Toàn cụm cứ điểm chìm trong khói lửa. Lại một loạt đạn 105 làm mặt đất rung chuyển, đèn điện tắt ngấm. Dưới ánh đèn pin, một bóng người lảo đảo vịn vào cây cột chống nóc hầm xuất hiện, cao, lớn, mặt trắng bệch, quần áo rách tươm, đầu bù tóc rối, mặt mũi lấm lem. Vadot trông như quỷ từ địa ngục lên."
"Langlais khạc đất trong miệng ra, rời khỏi chỗ đứng sát vách hầm đã sụp, leo lên đường hào đã mất phân nửa. Qua những khúc gỗ tròn của trần hầm đã gãy đổ, ông nhìn thấy đêm đen rung chuyển dưới cơn bão lửa khổng lồ đánh thẳng vào tim Tập đoàn cứ điểm. Ở đó các hầm chỉ huy và trạm phẫu thuật chen chúc nhau. Phía sau ngọn đồi âm u của cứ điểm Dominique (gồm các đồi D1, D2, D3), chốc chốc những lằn chớp cầy xới bầu trời đỏ rực phía trên cứ điểm Him Lam.
Quân Việt lấy những khẩu đại bác này từ đâu ra chứ ? Từ đâu vụt hiện ra những cú sét đánh làm lóa mắt và cơn cuồng nộ thép lửa cứ gầm rú điên cuồng?"
'Nghèo hơn nhưng giỏi hơn'
Pháo binh Việt Minh trong trận Điện Biên vẫn còn là pháo binh con nhà nghèo, song chơi giỏi đánh đáo hơn pháo binh Pháp.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong hồi ký 'Điện Biên-Điểm hẹn lịch sử'của ông cho biết :

Nguồn hình ảnh, [email protected]
"Một số nhà nghiên cứu phương Tây đã quá cường điệu số đạn pháo của ta tại Điện Biên Phủ. Có người tính ta đã bắn khoảng 350.000 viên. Cũng theo họ, phía Pháp đã sử dụng trong chiến dịch 132.000 viên, không kể hỏa lực của chiến xa và đặc biệt là không quân.
Trong thực tế, về đạn 105, ta chỉ có tổng số khoảng 20.000 viên, gồm 11.000 viên chiến lợi phẩm của chiến dịch Biên Giới, 3.600 viên do Trung Quốc viện trợ kèm theo pháo, 440 viên chiến lợi phẩm ở mặt trận Trung Lào, và khoảng 5.000 viên thu được của địch thả dù tiếp tế. Sau chiến tranh Triều Tiên, đạn pháo 105 ở Trung Quốc cũng rất khan hiếm. Trước nhu cầu cấp thiết của chiến dịch, bạn đã vét đạn 105 từ các kho chuyển cho ta, nhưng 7.400 viên tháng 5 năm 1954 mới tới khi trận đánh đã kết thúc. "
Đại tá Charles Piroth Pháp chỉ huy pháo binh ở Điện Biên Phủ Đại đã mất cánh tay trái trong trận đánh tại Ý năm 1943, song vẫn được giữ lại trong quân đội vì những kinh nghiệm chuyên môn giỏi. Tướng René Cogny, Tổng tư lệnh Bắc kỳ chho rằng chàng pháo thủ Piroth là sự bổ sung tuyệt vời cho kỵ sĩ quý tộc de Castries.
Piroth rất may không đọc được những dòng chữ này của tướng Giáp viết về cơn khát của pháo binh Việt Minh.
"Pháo đói đạn trầm trọng. Có ngày mỗi khẩu pháo của ta chỉ còn hai, ba viên đạn. Bộ chỉ huy Mặt trận buộc phải quy định lại việc sử dụng đạn dược: Bắn quá ba viên 105 phải xin phép Tham mưu trưởng, quá mười viên phải xin phép Tổng tư lệnh. Một lần tôi qua phòng tác chiến, nghe đơn vị đề nghị bắn năm phát lựu pháo vào sân bay. Anh Thái hỏi lại: " Bắn để làm gì ?". Khi biết đơn vị cần bắn tỉa quân địch, anh Thái trả lời: -Một viên ! ".
Những phát đại bác Việt Minh sắc lẻm như dao găm xỉa vào tim cụm cứ điểm là sự sỉ nhục khôn cùng dành cho Piroth. Đại tá Pháp tự sát ngay sau ngày thứ hai của trận đánh :
"Piroth nói: Hỏng hết rồi. Tôi đã báo cáo lại với Castries là phải dừng lại hết cả. Chúng ta sẽ bị tàn sát và đó là lỗi tại tôi.
Ông đột ngột bỏ đi, bước chân giật giật như chân người máy.
Ông nhớ lại những cuộc tranh luận với Bigeard (chỉ huy dù, tù binh tại Điện Biên, sau này trở thành Bộ trưởng Quốc Phòng) khi Bigeard nhắc đi nhắc lại là cái gì bọn Việt cũng làm được. Ông nhớ lại ngày đó ông kêu lên để cắt ngang câu chuyện :'Điều anh nói thật đáng phẫn nộ, Bigeard ạ:Ta không có quyền ca ngợi kẻ thù như thế !
Ông thừa nhận Bigeard và Castries nói đúng. Ông phải chịu trách nhiệm về việc mất cứ điểm Him lam, về cái chết của Gaucher và của những người khác. Ông không chịu nốc ly cognac đầy để giúp mình đứng vững, như một số người khác. Rúc sâu tận đáy hầm của mình, ông gỡ một quả lựu đạn đeo ngang thắt lưng, dùng răng rút chốt và giữ nó cạnh trái tim mình. "(sđd)
Lịch sử quân sự cần có những nghiên cứu chuyên sâu. Việt Minh đã sử dụng thế nào những khẩu đại bác như các cây súng trường bắn tỉa, mà vũ khí đó trước kia còn rất lạ lẫm?
Song phải chăng mờ mắt vì tranh công, vì thiếu trung thực mà những bài viết cần đặt câu hỏi về tính xác thực xuất hiện về pháo binh ở Điện Biên?
Hai nhà báo, hai bản viết về một sự kiện

Nguồn hình ảnh, [email protected]
Câu chuyện trong 'Điện Biên-Điểm hẹn lịch sử' tướng Giáp kể trong hồi ký tôi dẫn dưới đây được hai nhà báo biến thành hai dị bản.
Tướng Giáp viết :
" Không quân địch được huy động với nhiệm vụ đặt những khẩu pháo của Việt Minh " trên miệng núi lửa"! Chúng ném bom lớn, bom napan như muốn san bằng cả hai trái đồi. Có lần một trái bom rơi trúng trận địa sơn pháo trên đồi trong lúc đang diễn ra trận đấu pháo giữa ta và địch.
Một khẩu pháo bị hỏng. Khẩu đội trưởng Phùng Văn Khẩu chỉ huy khẩu đội còn lại, quát lên:
- Còn một khẩu cũng đánh!
Anh nhảy vào vị trí ngắm đưa đường tim chữ thập vào mục tiêu và tự mình giật cò. Chỉ trong vòng 10 phút, lần lượt bốn khẩu 105 của địch câm họng."
Dị bản một- Nhà báo Kiều Sơn Mai viết cho tờ CAND :
"Tư lệnh của đàn voi thép sải những bước chắc nịch lên đồi E để kiểm tra trận địa sơn pháo 75 ly. Đồi E chỉ cách Phân khu trung tâm Mường Thanh chừng 400m theo đường chim bay. Mặt đồi bị cày xới và khét lẹt mùi thuốc cháy. Khẩu đội trưởng Phùng Văn Khầu đã đón và đưa Tư lệnh đi thăm trận địa của ta, quan sát các trận địa pháo của địch ở Mường Thanh. Tư lệnh Đào Văn Trường đang quan sát trận địa địch bằng mắt thường qua nòng pháo, bỗng Phùng Văn Khầu nói to: "Nó ngóc đầu! Nó ngóc đầu! Đồng chí bắn đi".
Nghe ba chữ "Nó ngóc đầu!", Tư lệnh hiểu ngay là pháo binh địch sắp nhả đạn. Sẵn lúc đứng kề bên khẩu pháo đã nạp đạn và được chỉnh hướng từ trước, cụ Trường giật mạnh cò pháo. Viên đạn xé không khí lao vút vào trận địa pháo của địch, nổ ầm khiến chúng thất kinh. Nhắc lại chi tiết này, cụ Trường hóm hỉnh bình luận: "Tôi là Tư lệnh Đại đoàn mà chịu sự chỉ huy của khẩu đội trưởng như thế đấy!". (Trích Kiều Mai Sơn, Tư lệnh pháo binh chiến dịch Điện Biên Phủ (xem thêm nguồn tư liệu).
Dị bản 2- Trần Thanh Hằng viết cho tờ Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam viết :
"Ông Trường kể lại: "Giữa ông và ông Khầu có nhiều kỷ niệm, trong đó ông nhớ nhất lần xuống kiểm tra Đại đội sơn pháo 75 chốt giữ điểm cao trên đồi E1, để yểm trợ các mũi tấn công của bộ binh, khi đó ông Phùng Văn Khầu là khẩu Đội trưởng. Lúc đó trinh sát dùng ống nhòm quan sát thấy pháo địch dưới lòng chảo ngóc đầu lên, ông biết là chúng sắp bắn, vì thế ông ra lệnh cho khẩu đội sơn pháo của ông Khầu ngắm bắn thẳng vào trận địa pháo 105mm của địch, vừa tiêu diệt được hỏa lực địch, vừa bảo toàn được lực lượng ta."

Nguồn hình ảnh, AFP
Hạng người nhảy ra đòi 'công ải, công ai' thời nào cũng có, khi những người anh hùng thật sự không còn. Nhưng đó chỉ là những cái khôn vặt, kiểu nói dân dã 'khôn như thế, ở quê tớ đầy'.
Tướng Giáp viết trong ngày kỷ niệm 50 năm chiến thắng này:
" Mỗi lần trở lại Điện Biên Phủ, tôi tới nghĩa trang liệt sĩ dưới chân đồi A1 thắp nén hương tưởng niệm những người đồng đội đã nằm lại đây. Đứng trước rất nhiều ngôi mộ không có tên, tôi hình dung ra anh chiến sĩ trẻ tới chiến trường giữa trận đánh, chiến đấu bên những người đồng đội chưa kịp biết tên mình, và mình cũng chưa kịp biết là đang ở đơn vị nào. Tiểu đoàn 23, đánh địch phản kích trên sân bay Mường Thanh, đã ghi công đầu cho người chiến sĩ cắm lá cờ làm chuẩn cho pháo bắn chi viện giữa lúc địch tiến công dữ dội nhất, nhưng không một ai biết tên anh, cũng như anh ở đâu, còn hay mất ! Chàng trai Phù Đổng từ thời xa xưa sau khi đánh thắng giặc Ân đã cưỡi ngựa về trời . . . "
Lại gần 20 năm đã trôi qua từ tâm sự cháy lòng của tướng Giáp, nhưng vẫn chỉ là những mải mê ngủ hoài vô ơn với những người đã khuất, hoặc ôm mãi giấc mộng huyễn hoặc trên những tầng kinh các.
Tôi chao đảo trong vần thơ của nhà thơ cầm súng Quang Dũng :
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
"Quân xanh màu lá dữ oai hùm
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…
Chúng ta nợ những người lính ra chiến trường chẳng tiếc đời xanh ấy những nghiên cứu xứng tầm. Nợ những con người bị ném vào nỗi khổ đau của cuộc chiến tranh không có bến bờ, chịu đựng những đau khổ mà ít người lính ở trên trái đất phải chịu, song họ đã làm nên chiến tích bất hủ, mà quân sử các nước khác có được. Phải vậy không các bạn?
Bài thể hiện quan điểm riêng của ông Phạm Cao Phong, hiện sống tại Paris, Pháp.