Chống Covid-19 bằng vaccine hay miễn dịch cộng đồng?

Getty Images

Nguồn hình ảnh, Getty Images

    • Tác giả, Zaria Gorvett
    • Vai trò, BBC Future

Trong suốt chiều dài lịch sử, nhân loại đã có những bước đi xa không ngờ để tránh bệnh truyền nhiễm.

Phương cách kỳ quặc

Vào thời Trung Cổ, người ta thường ngâm mình trong một loại 'giấm bốn tên trộm' - pha trộn các thảo mộc ủ trong giấm hoa quả - trước khi ra khỏi nhà, như một cách để chặn dịch bệnh.

Truyền thuyết kể rằng một bọn trộm mộ đã chế ra loại giấm này để giữ mình an toàn. Cuối cùng thì bọn chúng cũng bị bắt nhưng nhà chức trách đồng ý thả chúng đi để đổi lấy công thức bí mật làm giấm.

Ở Sardinia hồi thế kỷ 16, mọi chuyện phức tạp hơn một chút. Bác sĩ Quinto Tiberio Angelerio đã nghĩ ra một phương pháp giãn cách xã hội tài tình, "bất kỳ người nào đi ra khỏi nhà đều phải vác theo một cây gậy dài sáu sải tay, và với cây gậy dài như thế, không ai đến gần người khác được".

Trong cẩm nang tiên tri rùng rợn về các biện pháp vệ sinh cần thực hiện nếu bùng phát dịch bệnh ở thành phố Alghero, ông khuyến cáo mỗi hộ gia đình chỉ để một người mạo hiểm đi mua đồ và kêu gọi mọi người cẩn thận khi bắt tay.

Năm 1793, chính phủ Mỹ chỉ cần sơ tán toàn bộ một số khu vực ở Philadelphia - thủ đô lúc bấy giờ - để bảo vệ người dân trước đợt bùng phát bệnh sốt vàng da. Ước tính 20.000 người đã rời thành phố trong vòng một tháng, tương đương khoảng một nửa dân số thành phố vào lúc đó.

Trong số các biện pháp phòng ngừa khác mà tiền nhân của chúng ta áp dụng có cả việc dùng thuốc cóc (được chế ra từ con cóc nghiền ra trộn với một số thứ kinh tởm khác), mà không ai khác chính là nhà vật lý được tôn sùng Isaac Newton chế ra trong ra Đại dịch Hạch, và tập quán đáng sợ gần đây về răng miệng: vào thời thập niên 1940, phụ nữ thường xuyên nhổ hết răng để đề phòng nguy cơ bị sâu răng, nhiễm trùng. Biện pháp này phổ biến đến nỗi khoản trả tiền nhổ răng thường được dùng làm quà cưới hoặc quà sinh nhật lần thứ 18 (Chúc mừng sinh nhật 18 tuổi, nay bạn cần có bộ răng giả!)

Ngay cả hàng thế kỷ trước khi chúng ta biết về vi sinh vật, kháng thể hoặc tiêm chủng, mọi người đã có suy nghĩ khá đúng đắn, đó là phải tránh để nhiễm bệnh bằng mọi giá.

Miễn dịch cộng đồng

Đến năm 2020, bắt đầu có những rạn nứt trong lối suy nghĩ vốn là phổ biến trước đây.

Trong giai đoạn đầu đại dịch Covid-19, có tin rằng một số người đang xem xét chiến lược cố tính để dân nhiễm Covid-19, một chiến lược mang tính rủi ro cao và rất đáng ngờ - như một cách để nhanh chóng trở lại cuộc sống bình thường.

Các thuật ngữ 'hộ chiếu miễn dịch' và 'miễn dịch cộng đồng' đã trở thành từ vựng chính thống, và số lượng kháng thể thấp trong dân chúng được nhìn nhận như là 'cú giáng thất bại' thay vì là thành công.

Giờ đây, một nhóm các nhà khoa học đã ký một tuyên bố gây tranh cãi - Tuyên bố Great Barrington - theo đó chỉ trích việc áp đặt lệnh phong tỏa. Thay vào đó, họ kêu gọi thực hiện điều mà họ coi là 'bảo vệ có trọng tâm'.

Được một nhóm gồm hai nhà dịch tễ học và một kinh tế gia y tế soạn thảo, tuyên bố này cho rằng cách tiếp cận trắc ẩn nhất đối với đại dịch nên là "để những người có nguy cơ tử vong thấp nhất sống cuộc sống bình thường, qua đó xây dựng khả năng miễn dịch với virus bằng hình thức lây nhiễm tự nhiên, đồng thời bảo vệ tốt hơn những người có nguy cơ cao nhất".

Nó đã thu hút hàng nghìn chữ ký kể từ khi được công bố, nhưng nhiều khẳng định trong đó đã bị những nhà khoa học khác nghi ngờ.

Tuy nhiên, ở một số nơi, để cho lây nhiễm thậm chí còn trở thành một phần kín đáo của chiến lược quốc gia.

Getty Images

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh, Năm 1793, chính phủ Mỹ sơ tán toàn bộ một số khu vực ở Philadelphia - thủ đô lúc bấy giờ - để bảo vệ người dân trước đợt bùng phát bệnh sốt vàng da

Tại Thụy Điển, Folkhälsomyndigheten (FHM), tức cơ quan y tế công, đã thực hiện cách tiếp cận được cho là thuộc nhóm dễ dãi nhất Châu Âu.

Nước này trong tháng 11/2020 bước vào đợt phong tỏa đầu tiên, nhưng trước đó, trong hầu hết năm rồi, Thụy Điển là pháo đài hiếm hoi nơi cuộc sống vẫn diễn ra bình thường.

Nhà dịch tễ học quốc gia Anders Tegnell đã tích cực khuyến khích công chúng không nên đeo khẩu trang, và trong khi phần lớn phần còn lại của châu Âu đã ở trong nhà thì người dân ở quốc gia Bắc Âu này vẫn tự do giao du trong các quán bar, phòng gym, cửa tiệm và nhà hàng.

Hồi tháng Bảy, FHM tuyên bố rằng tỷ lệ miễn dịch ở thủ đô Stockholm có thể lên tới 40% và thành phố đã đẩy lùi virus.

Tất cả chuyện này có thể sớm trở thành dĩ vãng.

Đến nay, đã có ít nhất một loại vaccine được phê chuẩn là đạt mức khả thi để đưa ra sử dụng rộng khắp, và nhà miễn dịch học người Đức đằng sau vaccine này - sản phẩm của Pfizer-BioNTech - mới đây dự đoán rằng đại dịch sẽ kết thúc vào mùa đông tới.

Nhưng vào lúc này thì đại dịch vẫn tiếp diễn.

Các ca mắc Covid-19 đang gia tăng nhanh chóng ở Mỹ, Pháp, Bỉ, Đức, Ý, Nga, Anh, Ấn Độ, Mexico, Thụy Điển và Hy Lạp.

Nga đã cải tạo một sân trượt băng thành bệnh viện dã chiến, thủ đô Jakarta của Indonesia đang hết chỗ chôn và Tây Ban Nha đã ban bố tình trạng khẩn cấp quốc gia.

Tình hình ở Mỹ được mô tả là "đợt bùng phát lớn cuối cùng".

Khi chúng ta vẫn đang phải đối mặt thế lưỡng phân khó khăn là phong tỏa hay lây nhiễm hàng loạt, thì dưới đây là tóm tắt các lý do tại sao các chuyên gia lại mê mẩn lựa chọn đầu tiên như vậy - và tại sao bạn thực sự không muốn cố tình dính bất kỳ mầm bệnh nào.

Vaccine giúp bảo vệ con người tốt hơn

Vào tháng 2/2009, một loại virus cúm hoàn toàn mới xuất hiện từ một trang trại lợn ở miền đông Mexico.

Đầu tiên, những con lợn nhiễm bệnh bắt đầu ho hoặc "sủa", phát ra tiếng kêu chói, vang như tiếng ngỗng.

Trong những ngày tiếp theo, lợn bệnh bị chảy mũi, mắt đỏ, thở há to miệng và thường không muốn đứng dậy.

Một số con còn có nhiệt độ cao và bị hắt hơi, trong khi những con khác không có bất kỳ triệu chứng gì.

Một ngày nọ, virus này được cho là từ một con lợn bệnh nhảy sang người ở ngôi làng miền núi gần đó - có thể là một bé trai hoặc một bé gái sáu tuổi. Từ đó, nó nhanh chóng quét ra khắp toàn cầu.

Đến tháng Năm, ít nhất 18 quốc gia bị dính. Đến tháng Bảy, dịch lan đến 168 nước và lục địa nào cũng có ca mắc. Đây là đại dịch.

Nhưng trong khi sự chú ý của thế giới tập trung vào việc theo dõi sự lây lan của virus bí ẩn này, thì có điều khác thường đã xảy ra - những người nhiễm bệnh này lại trở nên miễn nhiễm trước các bệnh cúm khác.

Nếu để tự vận động, hệ miễn dịch của chúng ta có xu hướng nhắm vào "đầu" của virus, bằng cách tạo ra các kháng thể biết nhận diện ra nó.

Thế nhưng đó lại là một sai lầm.

Loại cúm này nổi tiếng là con quái vật khó bắt được, và phần đầu của nó tiến hóa nhanh chóng - có nghĩa là kháng thể mà cơ thể đã tạo ra thường chỉ bảo vệ được cơ thể trước những chủng virus mà người bệnh đã từng mắc phải, trong lúc không nhận diện được tất cả các loại virus cúm khác.

Đây là lý do tại sao chúng ta bị cúm hết lần này đến lần khác và tại sao những người dễ bị tổn thương cần tiêm chủng cúm hàng năm.

Lần này thì khác.

Chuyện xảy ra là khi tiếp xúc với cúm lợn, đôi khi hệ miễn dịch của chúng ta có thể tránh được sai lầm thông thường - thay vào học cách nhận diện phần "đầu" thì hệ miễn dịch lại tập trung vào "thân" virus vốn ổn định hơn nhiều và giống nhau giữa rất nhiều loại virus khác nhau.

"Khi chúng tôi phân tích các phản ứng kháng thể mà một số người bị nhiễm tạo ra," Ahmed Rafi, Giám đốc Trung tâm Vaccine Emory, Georgia, nói, "chúng tôi nhận thấy rằng nhiều kháng thể được tạo ra có phản ứng chéo rộng rãi."

Điều này có nghĩa là chúng không chỉ hiệu quả đối với chủng H1N1 mà chúng nhắm vào - mà còn với nhiều loại virus cúm khác.

Getty Images

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh, Số người tử vong do Covid-19 cho thấy việc cố tình để lây nhiễm là một phương án nhiều rủi ro

Kết quả đạt được rất triệt để. Khả năng nhận biết thân virus được cho là vô cùng hữu ích.

Một số nhà khoa học cho rằng nó giải thích một sự kiện khác trùng hợp với đại dịch. Tất cả các loại cúm A khác tồn tại ở người cho đến thời điểm đó - loại duy nhất gây ra đại dịch, cũng như hầu hết các ca cúm mùa - đều đột nhiên không còn nữa. Có vẻ như là bằng cách huấn luyện cơ thể nhận biết nhiều loại virus cúm khác, H1N1 đã khiến họ hàng gần nhất của nó bị tuyệt chủng.

Nhưng nếu như điều này khiến bạn nghĩ rằng việc bị nhiễm cúm lợn có vẻ như là một ý tưởng hay, thì bạn có thể sẽ muốn nghĩ lại.

Giống như biến thể đứng đằng sau đại dịch cúm 1918, virus cúm lợn có thói quen bất thường là giết chết người trẻ tuổi.

Virus này cũng được cho là có liên hệ tới việc phát triển các điều kiện tự động miễn nhiễm, trong đó gồm chứng tiểu đường type 1 và chứng buồn ngủ. Và mặc dù tỷ lệ tử vong nhìn chung là thấp, nhưng phải mất hàng năm người ta mới xác định được những điều này.

Những hiểu biết về dịch cúm lợn đang được đưa vào việc phát triển thứ có thể trở thành vaccine cúm phổ thông đầu tiên. "Nghiên cứu đó rất có ảnh hưởng đến chiến lược đang được nhiều nhóm nghiên cứu sử dụng," Rafi nói. Cho đến khi có phát hiện này của ông, không ai biết liệu điều này thậm chí có thể đạt được hay không.

Nhưng vào năm 2018, gần một thập kỷ sau đại dịch cúm lợn, một loại vaccine như vậy cuối cùng đã được đưa vào thử nghiệm lâm sàng Giai đoạn III - thử nghiệm quy mô trên người để giúp đánh giá mức độ an toàn và tính hiệu quả.

Ưu thế của vaccine

Đây là ưu điểm lớn đầu tiên của vaccine hiện đại. "Không phải tất cả các trường hợp lây nhiễm tự nhiên đều đưa đến miễn dịch lâu dài," Beate Kampmann, giáo sư về truyền nhiễm và miễn dịch tại Trường Vệ sinh và Y học Nhiệt đới London, đồng thời là giám đốc trung tâm vaccine của trường, cho biết.

"Đây là một vấn đề lớn trong bối cảnh Covid-19, bởi vì virus corona nói chung không được như vậy. Vì vậy, nếu nghĩ về vaccine, nếu muốn miễn dịch lâu dài, bạn phải làm tốt hơn so với những gì diễn ra trong tự nhiên."

Getty Images

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Để làm được điều này, các nhà khoa học có thể vận dụng hơn một thế kỷ kiến thức và chuyên môn trong chế tạo vaccine.

Một số có chứa các protein cụ thể được lựa chọn khắt khe về khả năng tạo ra miễn dịch lâu dài - giống như các protein được tìm thấy trong bệnh cúm lợn. Chúng thường có thêm các thành phần bổ sung - từ dầu gan cá mập đến nhôm - góp phần tăng hiệu quả của chúng.

Kế đó là cách chúng được sử dụng - vaccine có thể được tiêm vào cơ hoặc dưới da, bắn vào da dưới dạng tia dung dịch lỏng, được đưa vào qua kim tiêm siêu nhỏ, tiêu hóa trong viên đường, hoặc hít vào.

"Công nghệ mà bạn sử dụng để tiêm chủng có thể làm thay đổi cấu trúc của phản ứng miễn dịch một chút," Kampmann nói.

Bà đưa ra ví dụ về BCG. Thuốc chủng ngừa bệnh lao này được tiêm vào da chứ không phải cơ - và điều này giúp nó tương tác chặt chẽ hơn với các tế bào T của người, là loại tế bào có nhiệm vụ chính là tấn công các tế bào bị nhiễm bệnh, thay vì tạo ra kháng thể.

Vào tháng Mười, các nhà nghiên cứu từ Đại học Imperial College London ước tính rằng số người ở Anh có kháng thể với virus có thể đã giảm trong khoảng thời gian từ tháng Sáu đến tháng Mười. Phát hiện này chiếm tít báo quốc tế và dẫn đến tâm lý cảnh giác rộng rãi. Nhiều người lo ngại rằng điều này cho thấy tình trạng tái nhiễm Covid-19 thường xuyên có thể xảy ra - và điều này tất nhiên có nghĩa là vaccine cũng không có khả năng bảo vệ lâu dài.

Tuy nhiên, như một số chuyên gia đã chỉ ra, mọi chuyện không nhất thiết sẽ xảy ra như vậy.

Chẳng hạn, nghiên cứu không xem xét khả năng miễn dịch nhờ tế bào T - một dạng miễn dịch lâu dài được cho là đóng vai trò quan trọng trong mức độ nghiêm trọng khi nhiễm Covid-19.

Nhưng điều quan trọng cần chú ý ở đây, đó là vaccine rất khác với lây nhiễm tự nhiên.

Hiện vẫn chưa rõ miễn dịch do đã từng nhiễm Covid-19 một cách tự nhiên thì khác gì so với miễn dịch do được chủng ngừa với các loại vaccine đang được thử nghiệm lâm sàng - bao gồm các vaccine của Pfizer/BioNTech và Moderna, vốn đã cho kết quả ban đầu chứng tỏ hiệu quả trên 90% và 94,5% mỗi loại.

Getty Images

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Tuy nhiên, kết quả ban đầu từ các thử nghiệm trên động vật cho thấy rằng một số ứng viên vaccine tạo ra lượng kháng thể cao hơn mức được tìm thấy trong máu của bệnh nhân đã phục hồi. Điều này cho thấy chúng có thể có khả năng bảo vệ tốt hơn so với các trường hợp lây nhiễm tự nhiên.

Một lợi thế quan trọng khác của vaccine là nó mang lại cơ hội tạo miễn dịch cho đông đảo người dân cùng một lúc.

Miễn dịch cộng đồng thường xảy ra nhờ vào vaccine

Vào thời kỳ đầu của đại dịch Covid-19, Ý là một trong những nước bị ảnh hưởng nặng nhất trên thế giới. Và trong nước Ý, Bergamo - một tỉnh phía bắc với 1,1 triệu dân, trải trên một diện tích 2.755 km vuông - là tâm dịch.

Mặc dù Bergamo nổi tiếng với cảnh quan núi non, vườn nho và lịch sử Trung Cổ, nhưng đột nhiên nó xuất hiện tiếng còi xe cứu thương rền rĩ suốt ngày đêm, các bác sĩ phải đối mặt với thế lưỡng nan đau lòng về đạo đức là ưu tiên ai được chăm sóc đặc biệt.

Báo chí đưa tin nhiều bệnh nhân lớn tuổi đã chết trong cô độc. Trong một ca bi thảm, một linh mục 74 tuổi được cộng đoàn yêu quý ông tặng một chiếc máy thở. Nó có thể đã cứu mạng ông - nhưng ông đã hiến tặng chiếc máy thở đó cho người trẻ hơn và qua đời ngay sau đó.

Tính đến tháng Chín, các nhà khoa học ước tính rằng khoảng 38,5% người dân ở Bergamo có kháng thể chống lại Covid-19, con số này cho thấy rằng có khoảng 420.000 người trong tỉnh này đã nhiễm bệnh.

Chỉ có một vài nơi khác có tỷ lệ người dân được cho là đã nhiễm virus cao như vậy, trong đó có thành phố Manaus của Brazil, nơi khoảng 66% dân có kháng thể.

Ở cả Bergamo và Manaus, số lượng ca nhiễm Covid-19 đã giảm đột biến, có thể là do kết quả của miễn dịch cộng đồng giúp kìm hãm đà sự lây lan của virus.

Nhưng có một số nguyên do giải thích tại sao điều này thường có được nhờ vào vaccine - và tại sao sẽ là điều bất thường nếu khái niệm này được đưa ra bàn luận trong bối cảnh lây nhiễm tự nhiên.

Miễn dịch cộng đồng là khả năng kháng bệnh xảy ra trong một quần thể, do kết quả của việc hình thành miễn dịch ở các cá nhân.

Nó không làm cho virus biến mất hoàn toàn, nhưng hạn chế sự lây lan của chúng chừng nào chúng còn lây - nó không có tác dụng đối với sự lây nhiễm theo những cách khác. Nếu có ít người dễ bị nhiễm một mầm bệnh nào đó, thì sẽ không có nhiều mầm bệnh lây lan ra.

Getty Images

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Trái với suy nghĩ nhiều người, không có ngưỡng đáng tin cậy làm mốc để cho là ta đã đạt đến khả năng miễn dịch cộng đồng, chẳng hạn như con số 66% số người nhiễm thường được nêu ra cho trường hợp Covid-19.

Thay vào đó, ngưỡng để nó hiện thực hóa phụ thuộc vào số sinh sản (R), tức tỷ lệ trung bình số người bị lây bệnh từ một người đã nhiễm bệnh.

Ở những nơi có R cao, tỷ lệ những người đã miễn dịch trước khi nơi đó đạt miễn dịch cộng đồng cũng cần phải cao. Bệnh sởi nằm trong trường hợp này, với mỗi người lây cho khoảng 15 người khác, và khoảng 90-95% dân số cần được bảo vệ mọi lúc.

Trên thực tế, điều này có nghĩa là khó có thể có một ngưỡng đáng tin cậy duy nhất để đạt được miễn dịch cộng đồng đối với Covid-19.

Số R khác nhau trên khắp thế giới, phụ thuộc vào hành vi của chúng ta và mức độ miễn dịch trong dân chúng.

Nó cũng không thường được phân bố đồng đều trong dân cư - chẳng hạn, nó có thể cao hơn ở các thành phố và trong một số nhóm dân cư nào đó.

Do đó, ước tính số người cần được miễn dịch với virus để chấm dứt đại dịch dao động từ 85% ở Bahrain cho đến 5,66% ở Kuwait, theo một bài báo được xuất bản trên tạp chí Nature.

Đây là một nguyên do khiến ta không nên dựa vào dân chúng để hình thành mô hình miễn dịch cộng đồng một cách tự nhiên.

Do bản chất năng động, nó có thể khó phát hiện và nhanh chóng mất đi. Nó cũng hoàn toàn phi thực tế; nếu phải đến 85% số người cần bị nhiễm virus để đạt được điều đó, thì chúng ta đã đạt đến mức không bảo vệ được nhiều người chưa nhiễm - và việc che chắn những đối tượng dễ tổn thương nhất sẽ trở thành phi thực tế.

Thứ hai, có khả năng những người đã từng nhiễm Covid-19 vẫn có thể nhiễm lại, và lây cho người khác lần nữa, ngay cả khi họ không có triệu chứng lần thứ hai - như trường hợp của một số virus cúm mùa. Nếu như kiểu miễn dịch này không chặn được tình trạng tiếp tục lây lan, thì miễn dịch cộng đồng có thể không bao giờ thành hiện thực.

Thứ ba, miễn dịch cộng đồng là điều có thể khiến ta phải trả giá đắt. Chỉ riêng ở Bergamo đã có 3.100 ca tử vong, trong khi ở Manaus, cứ khoảng 500-800 người thì có một người chết vì Covid.

Getty Images

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh, Thời Trung Cổ, người ta chế ra một loại thuốc từ cóc nghiền để chữa bệnh

Bị nhiễm bất cứ loại mầm bệnh nào cũng trở thành mối rủi ro - nhất là một căn bệnh mới đối với nhân loại. Đôi khi, cái giá của lây nhiễm là điều ta sẽ không hề nhìn thấy trong nhiều tháng hoặc nhiều năm sau đó; chẳng hạn như virus HPV có thể mất nhiều năm để gây ung thư cổ tử cung, trong khi virus HSV-1 gần đây được cho là liên quan đến bệnh Alzheimer.

Nay thì người ta tin rằng Covid-19 gây ra một loạt các vấn đề về sức khoẻ dài hạn cho những ai nhiễm bệnh - điều được biết đến với thuật ngữ "Covid dai dẳng".

Không ai biết được là chứng "Covid dai dẳng" sẽ kéo dài trong bao lâu. Các triệu chứng như mệt mỏi, khó thở, đờ đẫn và đau khớp xương, bên cạnh các triệu chứng khác, xuất hiện ở một phần 20 số người đã phục hồi sau khi bị nhiễm Covid-19.

Đã có những dấu hiệu cho thấy đại dịch để lại cho chúng ta những hậu quả trong nhiều năm tới.

Dữ liệu sơ bộ từ một nghiên cứu cho thấy gần 70% những người bị chứng "Covid dai dẳng" bị tổn hại ít nhất là một bộ phận cơ thể trong thời gian bốn tháng kể từ thời điểm họ bắt đầu có các triệu chứng nhiễm bệnh. Cụ thể là họ bị các tổn thương đối với tim, phổi, gan, thận, lá lách và tuỵ.

Một nghiên cứu khác, được thực hiện trên các bệnh nhân nhập viện do nhiễm Sars, một loại virus corona khác với Covid-19, hồi 15 năm trước, cho thấy phổi của họ có xu hướng phục hồi đáng kể trong năm đầu tiên kể từ khi nhiễm bệnh, tuy nhiên sau đó thì gần như không cải thiện thêm được bao nhiêu.

Trong khi đó, một phân tích tiến hành trên diện rộng đối với các bằng chứng được thu thập từ những nạn nhân sống sót sau khi mắc Mers (hội chứng hô hấp Trung Đông) và Sars thường cho thấy rằng sức khoẻ không cải thiện thêm được gì nhiều sau thời gian sáu tháng đầu tiên kể từ khi nhiễm bệnh.

Nếu điều này là đúng, thì tốt hơn cả là ta cần làm sao để giảm tối thiểu số ca nhiễm.

Nhìn vào lịch sử lâu dài mà nhân loại nghĩ ra các phương cách tuyệt vọng, thậm chí buồn nôn để tránh bệnh truyền nhiễm, có thể nói rằng ít nhất thì đó cũng là điều chúng ta có thể làm được.

Ở nhà, giữ khoảng cách, đeo khẩu trang và rửa tay dễ dàng hơn - chắc chắn vẫn hơn thuốc cóc hay khả năng bị nhổ cả hàm răng.

Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.